Hiếu biết về hành vi nguy cơ sức khỏe của vị thành niên

Hiếu biết về hành vi nguy cơ sức khỏe của vị thành niên

MỤC TIÊU: Vị thành niên có nhiều các hành vi nguy cơ đối với sức khoẻ. Nghiên cứu này thiết kế để nhận biết hiểu biết của vị thành niên về các hành vi nguy cơ đối sức khoẻ trong lưa tuổi của họ. PHƯƠNG PHÁP: Nghiên cứu mô tả, cắt ngang, và là nghiên cứu cộng đồng trong đó 1440 đối tượng là vị thành niên (10-19 tuổi) được chọn ngẫu nhiên. Một bộ câu hỏi mở đã được sử dụng để thu thập các số liệu nhân khẩu và kiến thức về các hành vi nguy cơ sức khỏe. Trong số 1408 đối tượng tham gia nghiên cứu có 1 322 vị thành niên là học sinh đang đi học. KẾT QUẢ: Vị thành niên đã biết được một số hành vi nguy cơ cho sức khỏe. Nhưng các hành vi được các em nêu ra tập trung chủ yếu vào hành vi ăn quà vặt (67,9%), đi xe máy và xe đạp không đội mũ bảo hiểm (67,5%), 54% cho là không luyện tập thể thao và đua xe máy (40,3%). Họ vẫn còn không biết nhiều hành vi nguy cơ liên quan đến các vấn đề sức khác như nguy cơ của các bệnh nhiễm khuẩn, tai nạn, bạo lực, đua xe máy, bệnh học đường và các hành vi nguy cơ khác. Dù rằng, những hành vi vị thành niên cho là nguy hại nhất cho sức khỏe đó là sử dụng ma túy (71,2%) và hút thuốc (12,8%), nhưng biết quan hệ tình dục không an toàn là nguy cơ chỉ có 6,2%. KÊT LUẬN: Vị thành niên đã biết được một số hành vi nguy cơ sức khoẻ. Nhưng hiểu biết vẫn còn hạn chế, vì vậy nghiên cứu nâng cao hiểu biết cho vị thanh niên về các hành vi nguy cơ sức khỏe là cần thiết.
Từ khóa: Vị thành niên, học sinh, hành vi nguy cơ cho sức khỏe ĐẶT VẤN ĐỀ
Vị thành niên có nhiều các hành vi nguy cơ đối với sức khoẻ. Hiểu biết hành vi nguy cơ đối với sức khỏe là một nội dung quan trọng để đưa ra các giải pháp dự phòng đối với lứa tuổi vị thành niên (VTN). Ở Việt Nam cũng giống các nước đang phát triển trên thế giới vì sức khỏe của giới trẻ không mấy được quan tâm [1]. Hiện nay, VTN Việt Nam đang có nhiều cơ hội, thách thức và nguy cơ [2]. Hiểu biết được hành vi nguy cơ cho sức khỏe [3], là một yếu tố bảo vệ dương tính giúp giới trẻ phòng tránh các nguy cơ đó. Các nghiên cứu trong và ngoài nước đã đề cập đến nhiều các hành vi nguy cơ đối với các vấn đề sức khỏe khác nhau như hút thuốc [4], uống rượu [5] đối với các bệnh tim mạch, sử dụng các chất gây nghiện, quan hệ tình dục không an toàn đối với các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, HIV và các vấn đề xã hội khác như mang thai sớm hoặc tai nạn chấn thương. Tuy nhiên, những nghiên cứu hiểu biết của VTN đối với các hành vi nguy cơ là chưa nhiều. Vì vậy, bài báo này nhằm mô tả hiểu biết của VTN về những hành vi nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe trên cơ sở đó đề xuất các nghiên cứu tiÕp theo.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Thiết    kế nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả, cắt ngang và là nghiên cứu cộng đồng
2.    Thời gian nghiên cứu:
Nghiên cứu được thực hiện trong năm 2004
3.    Địa bàn nghiên cứu:
Nghiên cứu này được tiến hành tại 3 vùng (đại diện cho 3 vùng sinh thái của các tỉnh phía bắc của Việt Nam) là Hà Nội (thành phố), Hà Nam (nông thôn) và Thái nguyên (miền núi).
4.    Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là vị thành niên ở độ tuổi 10 -19 tuổi
5.    Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Cỡ mẫu: Cỡ mẫu thiết kế là 1440 vị thành niên và cỡ mẫu điều tra thực tế là 1408 Phương pháp chọn mẫu: Phương pháp chọn mẫu tầng theo ba giai đoạn. Giai đoạn 1 chọn 1 thành phố và 2 tỉnh đại diện cho phía bắc của Việt Nam. Giai đoạn 2 chọn 4 xã trong mỗi tỉnh. Mỗi tỉnh chọn ngẫu nhiên 4 xã để nghiên cứu và mỗi xã có danh sách toàn bộ các thanh thiếu niên có độ tuổi từ 10 đến 19 tuổi, từ danh sách tất cả VTN các xã chọn ngẫu nhiên 1440 VTN trên phần mềm Stata.
6.    Biến số và chỉ số nghiên cứu
Biến số đặc trưng nhân khẩu: Tuổi, giới, trình độ học vấn và vùng: Chỉ số 1: Tỉ lệ % VTN là nam giới và tỉ lệ % VTN là nữ giới; Chỉ số 2: Tỉ lệ % VTN ở nhóm tuổi 10-14 tuổi và tỉ lệ % VTN ở nhóm tuổi 15-19 tuổi; Chỉ số 3: Tỉ lệ % VTN đang đi học ^ và tỉ lệ % VTN không còn đi học và chỉ số 4: Tỉ lệ % VTN theo 3 vùng nghiên cứu (thành thị, đồng bằng và miền núi)
Biến số hiểu biết về hành vi nguy cơ: 1) hút thuốc’, 2) uống rượu bia, 3) đua xe máy, 4) tiêm chích ma túy, 5) ăn quà vặt, 6) quan hệ tình dục không an toàn, 7) không luyện tập thể thao, 8) ăn uống không hợp vệ sinh và 9) đi xe đạp hoặc xe máy không đội mũ bảo hiểm. Các chỉ số bao gồm các tỉ lệ % vị thành niên hiểu biết về từng hành vi nguy cơ cho sức khỏe.
Biến số hiểu biết về hành vi nguy hại nhất cho sức khoẻ. Các chỉ số là các tỉ lệ % vị thành niên hiểu biết về các hành vi nguy hại nhất cho sức khỏe.
7.    Khái niệm
Hành vi nguy cơ sức khoẻ: (Health Risk Behavior): là bất kỳ một yếu tố nào làm đe doạ đến sức khoẻ chung của vị thành niên như sử dụng chất gây nghiện, rượu, hoạt động gây tội ác, bao lực, tự tử và trầm cảm.
8.    Qui trình kỹ thuật thu thập số liệu
Trước khi phỏng vấn trực tiếp thanh thiếu niên, một cuộc phỏng vấn ngắn lấy các thông tin về gia đình. Một bộ câu hỏi mở đã được sử dụng để thu thập các số liệu nhân khẩu và kiến thức về các hành vi nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe.
Điều tra viên là cán bộ của Trường Đại Học Y Hà Nội và Trường Đại Học Y Thái Nguyên. Nghiên cứu định tính đã thu thập thông tin trước khi tiến hành điều tra định lượng và bộ câu hỏi đã được điều tra thử trước khi điều tra chính thức. Phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi mở tại hộ gia đình của đối tượng.
9.    Xử lý và phân tích số liệu
Nhập số trên phần mếm EPI-INFO 6.04 và phân tích bằng phần mềm SPSS version 13.1. Sử dụng test Khi bình phương (x2) và Odd ratio (OR) để kiểm định sự khác biệt về tỉ lệ giữa các biến số.
10.    Sai số nhiễu và cách không chế
Nhằm tránh sai số nhiễu trong nghiên cứu những cách khống chế sau đây đã được thực hiện: Chọn mẫu tầng theo chủ đích và chọn mẫu ngẫu nhiên đơn trên phần mềm Stata dựa vào danh sách tất cả các VTN tại xã nghiên cứu. Tập huấn cho điều tra viên kỹ và phỏng vấn trực tiếp tại nhà để tránh lấy sai đối tượng và không có người thứ 2 để ảnh hưởng đến đối tượng.
11.    Hạn chế của nghiên cứu
Đối tượng tham gia nghiên cứu là những học sinh đang đi học hoặc đã bỏ học ở lứa tuổi VTN từ 10 -19 tuổi, mặc dù được chọn đại diện cho 3 vùng theo phương pháp chọn mẫu tầng. Tuy nhiên, những đối tượng nghiên cứu này chưa phải là đại diện cho đối tượng học sinh, cũng như ở lứa tuổi vị thành niên. Vì vậy, kết quả của nghiên cứu, chỉ mang tính đại diện cho những đối tượng tham gia nghiên cứu.
12.    Vấn đề đạo đức

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment