Hiệu quả của ghép tế bào gốc tuỷ xương lên quá trình liền xương trong điều trị khớp giả thân xương chày
Khớp giả và chậm liền xương (CLX) thân xương chày là những diễn biến bất thường sau gãy xương với tỷ lệ 2,5 – 4,4%, do nhiều nguyên nhân gây nên. Việc điều trị không đơn giản, có thể để lại nhiều di chứng nặng nề, thậm chí cắt cụt chi, đặc biệt với những trường hợp có phần mềm xấu, tiền sử nhiễm trùng, khuyết xương hoặc diện gãy teo đét…
Nhiều nghiên cứu cho thấy tế bào gốc tuỷ xương (TBGTX) có khả năng tạo xương mới. Rosin, Friedenstein khi ghép khối tế bào tuỷ xương hoặc tuỷ xương invivo trong các khoang khuếch tán đều thấy sự hình thành xương và sụn. Friedenstein, Tavassoli khi ghép tuỷ xương hoặc khối tế bào tuỷ xương vào các vị trí khác nhau cũng thấy sự tạo xương cùng với sự hình thành tuỷ tạo máu [4].
Năm 1991, Connolly lần đầu tiên ghép trực tiếp tuỷ xương tự thân để điều trị khớp giả thân xương chày cho kết quả liền xương tốt [3]. Hernigou (2005) báo cáo 60 trường hợp khớp giả thân xương chày được ghép tuỷ xương tự thân đã qua xử lý có sử dụng máy tách tế bào để tăng số lượng và độ tập trung tế bào gốc được ghép, tỷ lệ liền xương đạt 88,3%; cho thấy đây là một phương pháp ít xâm lấn, đơn giản và hiệu quả. Tuy nhiên, tại Việt nam các nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc điều trị CLX, khớp giả hầu như chưa được thực hiện [1]. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
Đánh giá tác động của ghép khối TBGTX lên quá trình liền xương trong điều trị CLX, khớp giả thân xương chày.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân:
– Bệnh nhân: trên 18 tuổi và dưới 75 tuổi
– Được chẩn đoán CLX, khớp giả thân xương chày sau kết hợp xương hoặc điều trị bảo tồn bằng bột tại Khoa Chấn thương Chỉnh hình, bệnh viện Việt Đức từ tháng 9/2006 tới tháng 1/2009.
– Chức năng hô hấp, tuần hoàn, gan, thận bình thường
– Không có bệnh của máu, cơ quan tạo máu và các bệnh cấp tính
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lấy khối TBGTX: tuỷ xương được lấy từ mào chậu sau hai bên bằng kim lấy tuỷ có đường kính 2,4 mm, chống đông bằng heparin. Khối tế bào đơn nhân có chứa TBGTX được tách bằng phương pháp ly tâm tỷ trọng, huyền dịch trong nước muối sinh lý với thể tích cuối cùng là 30 ml và được xét nghiệm xác định số lượng tế bào tuỷ xương, tế bào đơn nhân, tế bào gốc CD34(+) và nuôi cấy CFU – F (đơn vị tạo cụm nguyên bào sợi) tại khoa Huyết học, Bệnh viện TWQĐ 108.
Kỹ thuật ghép: khối TBGTX được ghép cho bệnh nhân trong vòng 10 giờ kể từ khi lấy tuỷ. Xác định ổ khớp giả thân xương chày dựa trên lâm sàng hoặc bằng màn huỳnh quang tăng sáng. 30 ml huyền dịch TBGTX được tiêm vào khe khớp giả và xung quanh đầu xương gãy bằng kim 18G, tốc độ 2 ml/phút.
Theo dõi sau ghép: giữ nguyên phương tiện kết hợp xương hoặc bó bột tăng cường nếu không đủ vững. Bệnh nhân được phép tỳ một phần với nạng khi có can xương. Nếu can xương tiến triển tốt, tăng dần độ tỳ đến khi tỳ được hoàn toàn. Nếu xương liền tốt, bột hoặc phương tiện kết hợp xương được tháo bỏ. Bệnh nhân được khám lại và chụp X quang định kỳ sau ghép 1 tháng và hàng tháng đến khi xương liền để đánh giá tiến triển can xương.
Đánh giá kết quả: kết quả liền xương được đánh giá dựa trên lâm sàng, X quang: bệnh nhân có khả năng đi lại, tỳ đè hoàn toàn và không đau khi ấn vào ổ khớp giả; mức độ can xương được đánh giá theo thang điểm của Lieberman tuỳ theo sự hình thành xương mới qua ổ gãy: 1 = 0 – 25%, 2 = 26 – 50%, 3 = 51 – 75%, 4 = 76 – 99% hay can 3/4 thành xương, 5 = 100% hay can toàn bộ thành xương, liền xương là khi có hình ảnh can xương và/hoặc không còn đường gãy xương ít nhất 3/4 thành xương trên phim thẳng và nghiêng (điểm 4 và 5). Kết quả, thời gian liền xương và mức độ can xương được xác định xem có mối liên quan với số lượng tế bào tuỷ xương, tế bào CD34(+), CFU – F hay không.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích