Hiệu quả của phác đồ điều trị thường quy đối với bệnh nhân hội chứng thận hư nguyên phát người trưởng thành
Hội chứng thận hư (HCTH) nguyên phát người trưởng thành là một biểu hiện thường gặp ở các bệnh nhân bị bệnh cầu thận nguyên phát. Tuy bệnh nhân HCTH có biểu hiện lâm sàng và sinh học giống nhau nhưng kết quả điều trị lại rất khác nhau, và một trong những nguyên nhân dẫn đến điều này là do tổn thương mô bệnh học (MBH) cầu thận của các bệnh nhân HCTH rất đa dạng. Thông thường việc điều trị HCTH được bắt đầu theo kinh nghiệm bằng Corticoid, nếu bệnh nhân không đáp ứng sau đó có thể sử dụng các tác nhân Alkyl hoá (Cyclophosphamid (CP) hoặc Chlorambucil (ChA) hoặc Cyclosporin (CsA) và gần đây là Mycophenolat mofetil (MMF) [6; 8; 10]. Tuy nhiên ở người trưởng thành chỉ có
khoảng 16 – 30% số bệnh nhân HCTH có đáp ứng với điều trị. Với tổn thương xơ hoá cầu thận ổ – cục bộ một số bệnh nhân lại có đáp ứng với điều trị Corticoid liều cao kéo dài. Nếu điều trị mà không biết týp tổn thương MBH cầu thận sẽ có nhiều bệnh nhân có biến chứng do điều trị. Do vậy sinh thiết thận là điều cần thiết cho phép các bác sỹ lâm sàng chẩn đoán chính xác tổn thương và đưa ra hướng dẫn điều trị hợp lý [6].
Trên thế giới các khuyến cáo điều trị HCTH cho người trưởng thành được đưa ra tuỳ theo các týp tổn thương MBH cầu thận và dựa trên cơ sở dữ liệu của các bằng chứng thu thập được từ nhiều nghiên cứu đa trung tâm. Tuy nhiên ở Việt Nam, do điều kiện thực hiện sinh thiết thận, phương tiện xét nghiệm và phân tích kết quả
MBH thận còn nhiều khó khăn và hạn chế nên thông thường phác đồ điều trị được lựa chọn ban đầu vẫn là các thuốc nhóm Corticoid và nếu bệnh nhân không đáp ứng sau một thời gian trung bình 2 tháng mới thay đổi hoặc điều chỉnh phác đồ điều trị. Mục tiêu của nghiên cứu là:
1. Đánh giá mối liên quan giữa thời gian điều trị tấn công với tỷ lệ đáp ứng với phác đồ điều trị bằng Corticoid đơn độc và phác đồ điều trị bằng Corticoid phối hợp Cyclophos- phamid thường được áp dụng tại các cơ sở thực hành trong nước
2. Ghi nhận tỷ lệ một số biến chứng liên quan đến điều trị thường gặp ở bệnh nhân trưởng thành có HCTH nguyên phát.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả, tiến cứu, tiến hành trên 91 BN HCTH nguyên phát tuổi từ 16 đến 67.
Tiêu chuẩn chẩn đoán HCTH gồm:
1. Protein niệu >3,5 g/ 1,73m2/ 24 giờ.
2. Albumin máu <30g/l ± protid máu toàn phần < 60g/l.
3. Phù.
4. Rối loạn mỡ máu: tăng cholesterol ± triglyceride.
5. Có hạt mỡ, trụ mỡ trong nước tiểu.
Trong đó tiêu chuẩn (1) và (2) là bắt buộc.
Các tiêu chuẩn còn lại có thể không có đầy đủ.
Tiêu chuẩn loại trừ gồm:
– Bệnh nhân có HCTH thứ phát do đái tháo đường, bệnh hệ thống, ung thư, nhiễm trùng, ký
sinh trùng, siêu vi trùng, suy tim.
Tất cả các bệnh nhân được tiến hành sinh thiết thận trước khi bắt đầu điều trị hoặc trong vòng 2 tuần đầu tiên sau khi bắt đầu điều trị để làm xét nghiệm MBH. Tổn thương MBH cầu thận được xác định đồng thời bằng hiển vi quang học (HVQH) và hiển vi miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (HVMDHQTT).
Dựa vào kết quả tổn thương mô bệnh học cầu thận, các bệnh nhân được chia thành 2 nhóm: Một nhóm gồm các bệnh nhân có viêm cầu thận màng được điều trị ngay từ đầu bằng Cyclophosphamid liều 2 mg/ kg/ ngày phối hợp corticoid (Prednissolon hoặc Prednisson) liều 0,5 mg/ kg/ ngày, một nhóm gồm các typ tổn thương mô bệnh học cầu thận khác được điều trị bằng Corticoid đơn độc liều 1 mg/ kg/ ngày.
Đáp ứng với điều trị được đánh giá dựa vào lượng protein thải qua nước tiểu 24 giờ, tiến hành 3 tháng một lần đến hết 6 tháng điều trị tấn công. Bệnh nhân được coi là đáp ứng hoàn toàn khi protein niệu giảm xuống < 0,2 g/24 giờ, đáp ứng một phần khi protein niệu còn trong khoảng từ 0,2 g đến 3,5 g/24 giờ và không đáp ứng khi protein niệu vẫn còn > 3,5 g/24 giờ.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích