HIỆU QUẢ CỦA PROPESS LÀM CHÍN MÙI CỔ TỬ CUNG VÀ KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ TRÊN THAI ĐỦ TRƯỞNG THÀNH TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
HIỆU QUẢ CỦA PROPESS LÀM CHÍN MÙI CỔ TỬ CUNG VÀ KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ TRÊN THAI ĐỦ TRƯỞNG THÀNH TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Huỳnh Nguyễn Khánh Trang1, Tăng Thường Bản2
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Khởi phát chuyển dạ hiện vẫn là vấn đề được quan tâm trên thế giới và tại Việt Nam. Tỷ lệ chung ghi nhận là 9,6% trên thế giới.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm khảo sát tính hiệu quả và an toàn của Propess đặt âm đạo để làm chín muồi cổ tử cung và khởi phát chuyển dạ (KPCD) ở thai kỳ trưởng thành. Thai kỳ trưởng thành có chỉ định KPCD có điểm Bishop ≤ 4 và không có chống chỉ định sinh ngả âm đạo.
Đối tượng – Phương pháp: Nghiên cứu dọc tiền cứu 160 thai kỳ trưởng thành, có chỉ định KPCD tại Bệnh viện Hùng Vương từ tháng 11/2019 đến tháng 11/2020 với đánh giá cổ tử cung bằng thang điểm Bishop.
Kết quả: Tỷ lệ khởi phát chuyển dạ thành công ở thai đủ trưởng thành có chỉ định KPCD 88,8%, KTC 95% [0,84 – 0,93]. Các yếu tố liên quan đến KPCD thành công là số lần sinh, OR = 6,12, KTC 95% [1,21-30,83], p=0,028 và chiều dài cổ tử cung, OR = 0,18,95% CI [0,06-0,57], p = 0,004. Tác dụng ngoại ý đến mẹ và con: CTG nhóm II 20%, gò tử cung cường tính 13,1%, vỡ ối 9,4%, băng huyết sau sinh 2,5%, vàng da 1,3% và nhiễm trùng sơ sinh 0,6%, không có suy hô hấp.
Kết luận: Propess là phương pháp hiệu quả và an toàn để biến đổi thuận lợi cổ tử cung và giúp KPCD thành công.
Cuộc chuyển dạ thuận lợi và sinh qua ngả âm đạo là mong muốn của hầu hết thai phụ. Các thầy thuốc đều hiểu được lợi ích của việc sanh ngả âm đạo, cũng như nguy cơ của việc mổ lấy thai (MLT) đối với sức khỏe và tương lai sản khoa của người phụ nữ. Nhưng trong thực tế tỷ lệ MLT trên thế giới ngày càng tăng. Đây đang trở thành vấn đề sức khỏe toàn cầu. Tổ chức y tế thế giới khuyến cáo tỷ lệ MLT không nên vượt quá 15% ở các quốc gia và vùng lãnh thổ. Hiện nay, tỷ lệ MLT ở các nước trên thế giới đang tăng đều đặn qua từng năm. Ghi nhận ở Bắc Mỹ khoảng 25%, Trung Mỹ khoảng 30%, hơn 30% ở các nước châu Âu và lên đến 40% ở các nước châu Mỹ Latinh(1). Việt Nam, tỷ lệ MLT tại bệnh viện Phụ Sản Trung ương, vào những năm 60 là 9%, đến năm 2005 con số này tăng lên gần 40%(2). Phần lớn những trường hợp thai phụ phải chấm dứt thai kỳ bằng cách mổ lấy thai khi cổ tử cung chưa thuận lợi để sanh ngả âm đạo. KPCD giúp thai phụ có thêm cơ hội sanh ngả âm đạo.