Hiệu quả của thở áp lực dương liên tục qua mũi trong điều trị suy hô hấp do viêm phổi ở trẻ dưới 5 tuổi

Hiệu quả của thở áp lực dương liên tục qua mũi trong điều trị suy hô hấp do viêm phổi ở trẻ dưới 5 tuổi

Thở áp lực dương liên tục qua mũi (NCPAP) là một trong những biện pháp điều trị suy hô hấp (SHH) có hiệu quả cao, dễ áp dụng và an toàn. Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của thở áp lực dương liên tục qua mũi (NCPAP) trong điều trị SHH do viêm phổi ở trẻ dưới 5 tuổi tại bệnh viện Xanh Pôn và xác định một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị SHH bằng NCPAP. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thành công 73,6%, tỷ lệ thất bại 26,4%, thành công tập trung cao vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 5, thất bại chủ yếu trong  3 ngày đầu tiên thở NCPAP. Các triệu chứng lâm sàng của SHH và khí máu cải thiện sau 6 giờ thở NCPAP và duy trì trong các thời điểm sau đó. Các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị SHH bằng NCPAP bao gồm: mức độ SHH, PaO2 PaCC>2 máu trước khi thở NCPAP.
Thở áp lực dương liên tục qua mũi (NCPAP) là một trong những biện pháp điều trị suy hô hấp có hiệu quả cao, dễ áp dụng và an toàn ở trẻ em. Ngày nay các bác sỹ lâm sàng có xu hướng chỉ định NCPAP cho các bệnh nhân suy hô hấp sớm hơn để giảm tỷ lệ bệnh nhân phải đặt nôi khí quản và thở máy, qua đó giảm nguy cơ và tai biến do thở máy, đặc biệt là nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện. Ở Việt Nam, hệ thống NCPAP đã được đưa vào sử dụng từ những năm 1990 và đã cho thấy hiệu quả tốt trong điều trị suy hô hấp ở trẻ em. Có nhiều tác giả đã nghiên cứu đánh giá hiệu quả của thở NCPAP ở trẻ em nhưng chủ yếu tập trung vào đối tượng trẻ sơ sinh và đẻ non, có rất ít nghiên cứu đánh giá hiệu quả của của thở NCPAP trong điều trị suy hô hấp ở độ tuổi lớn hơn và trong các bệnh lý riêng biệt của trẻ em. Vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục tiêu:
1.    Đánh giá hiệu quả của thở NCPAP trong điều trị suy hô hấp do viêm phổi ở trẻ dưới 5 tuổi tại bệnh viện Xanh Pôn.
2.    Xác định một số yếu tố liên quan đến hiệu quả của thở NCPAP trong điều trị suy hô hấp.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tương
110 bệnh nhân được chẩn đoán viêm phổi, có SHH và có chỉ định thở NCPAP, tuổi từ 1 tháng đến 5 tuổi, điều trị tại Khoa hồi sức cấp cứu nhi bệnh viện Xanh Pôn.
–    Tiêu chuẩn chẩn đoán SHH: Lâm sàng: thở nhanh (> 60 lần/phút ở trẻ 1 – 2 tháng, > 50 lần/phút ở trẻ từ 2 tháng đến 1 tuổi và > 40 lần/phút ở trẻ từ 1 tuổi đến 5 tuổi), rút lõm lồng ngực, tím tái. Khí máu: SaO2 < 90% hoặc PaO2 < 60mm Hg và/hoặc PaCO2 > 50 mmHg với FiO-2= 21% (tiêu chuẩn của Trần Quỵ, 2002 [4, 5].
–    Chỉ định thở NCPAP: bệnh nhân SHH đã thở oxy qua mask với lưu lượng tối đa 6 lít/ phút trong thời gian 1 giờ mà còn một trong các dấu hiệu sau: thở nhanh trên 70 lần/phút, thở co rút lồng ngực nặng, tím tái, SpO2 < 90%, PaO2 < 60 mmHg (Tiêu chuẩn chỉ định thở NCPAP cho bệnh nhân viêm phổi – Bệnh viện nhi đồng 1, thành phố Hồ Chí Minh [1].
–    Tiêu chuẩn loại trừ: các BN có chống chỉ định của thở NCPAP: tràn khí màng phổi chưa dẫn lưu, sốc giảm thể tích.
2.    Phương pháp
–    Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp điều trị, so sánh đối chứng trước sau.
–    Phương tiện nghiên cứu: hệ thống NCPAP sử dụng van Benveniste để tạo PEEP.
–    Quy trình thở NCPAP:
+ Trước thở NCPAP: bệnh nhân được đánh giá các dấu hiệu như nhịp thở, nhịp tim, chuyển hóa rối loạn, tím tái, SpO2 và làm xét nghiệm khí máu.
+ Cài đặt áp lực ban đầu là 6 cmH2O và FiO2 khởi đầu là 60%, nếu bệnh nhân SHH nặng thì cho FiO2 ban đầu 80% hoặc 100%.
+ Theo dõi diễn biến lâm sàng và SpO2: Nếu BN đáp ứng không tốt thì tăng dần FiO2 cứ 10% sau mỗi giờ và tăng dần áp lực cứ 1 cmH2O sau mỗi 30 phút đến 1 giờ. Nếu BN đáp ứng tốt, tình trạng lâm sàng có cải thiện

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment