Hiệu quả điều trị bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới bằng phương pháp gay xơ bọt
Suy tĩnh mạch mạn tính (Chronic venous insufficiency) bao gồm các thay đoi do hậu quả của giãn tĩnh mạch, hở các van tĩnh mạch và tăng áp lực tĩnh mạch. Bệnh thường gặp ở hầu hết các nước trên thế giới, tỷ lệ 10 – 50% ở người trưởng thành (bao gồm cả giãn tĩnh mạch). Bệnh thường gặp ở người cao tuổi, đặc biệt là phụ nữ, biểu hiện lâm sàng rất phong phú, từ cảm giác nặng chân, chuột rút về đêm, đau chân ở giai đoạn đầu đến phù ở chân, nhiễm sắc tố da, eczema và cuối cùng là loét chân, điều trị rất khó khăn [3], [4].
Theo nhiều nghiên cứu dịch tễ học của các nước Phương Tây cho thấy tỷ lệ mắc bệnh này ở nhóm người cao tuổi rất cao, chang hạn trong nghiên cứu của Coon và cộng sự, tỷ lệ mắc bệnh toàn bộ của STMMT ở nhóm tuổi 60 – 69 là 58%. Nghiên cứu của Bale và cộng sự cho thấy tỷ lệ STMMT ở nhóm tuổi trên 60 là 75%. “
Ở Việt Nam, Cao Văn Thịnh và Cao Văn Tần điều tra trên 473 người trên 50 tuổi ở TP Hồ Chí Minh, tỷ lệ STMMT chiếm 43,97%. Trong một nghiên cứu gần đây, Phạm Thắng và Nguyễn Xuân Mến đã sử dụng Doppler Continue khám cho 545 người trên 50 tuổi ở Hà Nội, Hải Dương và Trung tâm dưỡng lão Hà Tây kết quả cho thấy tỷ lệ 14,13% có dòng chảy ngược trong tĩnh mạch hiển lớn và/hoặc tĩnh mạch hiển bé [1], [2].
Ngày nay có nhiều phương pháp điều trị STMMT chi dưới: ngoại khoa (gây xơ, phẫu thuật….) nhưng ở Việt Nam các biện pháp điều trị này cũng chưa thực sự được quan tâm. Gây xơ tĩnh mạch (GXTM) bằng bọt là một kỹ thuật can thiệp tối thiểu qua da, sử dụng hoá chất kích thích nhằm loại bỏ các tĩnh mạch bị suy (hở van tĩnh mạch) [1],[2]. GXTM chủ yếu được sử dụng để điều trị giãn tĩnh mạch trong da (telangiectasias), tĩnh mạch lưới và các giãn tĩnh mạch nhỏ. Kỹ thuật này cũng có thể dùng trong trường hợp có dòng chảy ngược trong tĩnh mạch hiển và các tĩnh mạch xuyên. GXTM bằng bọt ngày càng pho biến do ưu điểm tăng bề mặt tiếp xúc của thuốc với thành tĩnh mạch [5] và dễ theo dõi trên siêu âm doppler, sử dụng một lượng chất gây xơ ít hơn. Hiệu quả của phương pháp gây xơ bằng bọt đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu trên thế giới [5], [6], [7], đồng thời mức chi trả của phương pháp này là phù hợp với điều kiện hiện tại ở Việt Nam, tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có công trình nào công bố nhằm đánh giá hiệu quả trên thực tế lâm sàng của phương pháp điều trị bằng gây xơ tĩnh mạch bằng bọt vì vậy đề tài được tiến hành với các mục tiêu sau:
1. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của STMMT chi dưới.
2. Đánh giá hiệu quả của các phương pháp gây xơ bằng bọt trong điều trị bệnh STMMT chi dưới.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng:
30 bệnh nhân được chẩn đoán STMMT chi dưới có triệu chứng lâm sàng tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
– Có triệu chứng lâm sàng bao gồm: triệu chứng cơ năng, thực thể có dấu hiệu sóng vỗ và nghiệm pháp Brodie – Trendelenburg dương tính.
– Siêu âm Doppler màu: có dòng chảy ngược trong tĩnh mạch.
– Bệnh nhân có suy tĩnh mạch chi dưới độ II trở lên theo phân loại CEAP.
– Giãn các tĩnh mạch nông dưới da.
– Các TM hiển lớn, hiển bé và các nhánh có đường kính nhỏ hơn 6mm, ngoằn ngoèo
Tiêu chuẩn loại trừ:
– Đang có huyết khối tĩnh mạch.
– Rối loạn đông máu.
– Đái tháo đường có biến chứng bệnh động mạch chi dưới.
– Đang trong tình trạng nhiễm trùng.
– Tiền sử dị ứng với nhiều loại thuốc.
– Bệnh nhân đang có thai.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu.
Nội dung nghiên cứu
Khám lâm sàng: khai thác các yếu tố liên quan (tiền sử gia đình, nghề nghiệp đòi hỏi đứng lâu, số lần mang thai). Các triệu chứng cơ năng (nặng chân, đau chân, chuột rút về đêm, rối loại cảm giác ở chân). Khám tĩnh mạch, khám ngoài da (phù, nhiễm sắc tố da, viêm da, xơ hóa cứng, loét chân).
Khám huyết áp, nhip tim, tính BMI
Phân độ lâm sàng theo phân loại của CEAP để lựa chọn bệnh nhân có STMMT chi dưới từ độ II trở lên.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích