Hiệu quả hóa trị tân bổ trợ phác đồ TCF bệnh nhân ung thư đầu cổ giai đoạn không mổ được
Nghiên cứu nhằm đánh giá bước đầu hiệu quả hóa trị tân bổ trợ phác đồ TCF (Paclitaxel, Cisplatin, Flourouracil) cho bệnh nhân (BN) ung thư đầu cổ (HNC) giai đoạn muộn. Kết quả cho thấy tuổi trung bình 52,3 (36 – 70 tuổi); 92,9% là nam giới (tỷ lệ nam/nữ là 13/1); 61,9% liên quan rượu và thuốc lá; 8 bệnh nhân giai đoạn III, 34 bệnh nhân giai đoạn IV; 76,2% SCC độ II. Sau hóa trị tân bổ trợ: 15 bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn (35,7%), 20 bệnh nhân đáp ứng một phần (47,6%). Độc tính cấp tính độ 3: hạ bạch cầu 6 bệnh nhân, hạ bạch cầu hạt 5 bệnh nhân, hạ hồng cầu 2 bệnh nhân; còn lại là các độc tính độ 1, 2. Kết luận: Hóa trị tân bổ trợ phác đồ TCF cho 42 bệnh nhân HNC giai đoạn muộn trong nghiên cứu bước đầu là có khả thi, đạt độ dung nạp, tuy nhiên cần theo dõi sát về các độc tính.
Trên thế giới, gặp trên 500000 trường hợp ung thư đầu cổ (HNC) mới mắc hàng năm, 2/3 các trường hợp này xảy ra trong các nước đang phát triển và có sự khác biệt lớn về địa lý (khoảng 20 lần). Tại Hoa Kỳ, trong năm 2010 có 37200 trường hợp mới mắc và 7600 số ca tử vong từ các ung thư đầu cổ, theo ghi nhận của Hội Ung thư Hoa Kỳ [8]. Tại Việt Nam, báo cáo của dự án quốc gia về phòng chống ung thư giai đoạn 2008 – 2010: tỷ lệ mắc chung các ung thư ở nam giới Việt Nam năm 2010 là 181,3/100.000 dân (so với 141,6 năm 2000); tỷ lệ này ở nữ là 134,9/100.000 dân (năm 2000 là 101,6) [1].
Từ những năm 90 của thế kỷ trước, đã có những quan điểm mới về phối hợp hóa trị với xạ trị trong điều trị các ung thư đầu cổ giai đoạn muộn. Hóa trị liệu làm tăng đáp ứng của tế bào u với xạ trị và làm giảm liều xạ trị đối với u nguyên phát. Ngoài ra, sử dụng hóa trị liệu còn có thể giúp cho bảo tồn tổ chức nguyên vẹn (như với ung thư thanh quản). Tại Hội nghị ASCO năm 2010, phác đồ TCF chính thức được công nhận là phác đồ tân bổ trợ tiêu chuẩn điều trị HNC giai đoạn không mổ [4]. Một số tác giả đã nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên sử dụng hóa trị tuần tự với phác đồ TCF so sánh với phác đồ PF, sau đó điều trị chính bằng xạ trị hoặc hóa xạ trị đồng thời đã có các kết quả đầy hứa hẹn trong nhóm dùng TCF về tỷ lệ đáp ứng, tỷ lệ kiểm soát tại chỗ/tại vùng và thời gian sống thêm [3, 6, 9]. Và từ ngày 28/9/2007, Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã chính thức công nhận áp dụng nhóm Taxanes vào điều trị HNC.
Tại Việt Nam, đã có một số tác giả nghiên cứu về việc phối hợp hóa chất đồng thời với xạ trị để điều trị ung thư vòm mũi họng, thanh quản hạ họng…đã mang lại những tín hiệu đáng mừng của hiệu quả điều trị. Tuy nhiên, việc đánh giá một cách tổng quát hiệu quả điều trị tân bổ trợ phác đồ TCF các ung thư biểu mô tế bào vẩy khu vực đầu cổ ở giai đoạn không có chỉ định phẫu thuật chưa thực sự được quan tâm một cách thỏa đáng.
Để đánh giá hiệu quả của một phương pháp điều trị mới, chúng tôi tiến hành đề tài: “Bước đầu đánh giá kết quả hóa trị tân bổ trợ phác đồ TCF các bệnh nhân ung thư đầu cổ giai đoạn không mổ được” với mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học cho bệnh nhân ung thư đầu cổ giai đoạn không mổ được.
2. Đánh giá đáp ứng và độc tính của phác đồ TCF tân bổ trợ.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
* Gồm 42 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào vẩy vùng đầu cổ (hạ họng, thanh quản,
khoang miệng, họng miệng) ở giai đoạn III, IV không còn chỉ định phẫu thuật hoặc không mổ được điều trị tại Bệnh viện K từ tháng 10/2009 đến hết tháng 12/2010.
* Phương pháp:
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng không đối chứng.
* Tiêu chuẩn lựa chọn nhóm nghiên cứu
– Bệnh nhân có chẩn đoán xác định bằng mô bệnh học là ung thư biểu mô tế bào vẩy (SCC) tại khoa Giải phẫu bệnh, bệnh viện K (tiêu chuẩn vàng).
– Tuổi bệnh nhân từ 18 đến 70 tuổi.
– Bệnh nhân chưa được điều trị bằng bất
kỳ phương pháp nào.
– Lựa chọn đúng những bệnh nhân không còn hoặc không có chỉ định phẫu thuật, nhưng chưa có di căn xa theo hệ thống phân loại TNM của Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ AJCC 2002.
– Chỉ số P.S 0,1 theo thang điểm của ECOG (Eastern Cooperative Oncology Group), hoặc chỉ số Karnofski > 70%.
– Không có chống chỉ định truyền hóa chất (chức năng tim, gan, thận, tủy xương bình thường).
– Bệnh nhân không mắc các bệnh cấp và mãn tính trầm trọng có nguy cơ tử vong trong thời gian 6 tháng, không mắc bệnh ung thư nào khác.
– Các bệnh nhân được giải thích đầy đủ liệu trình điều trị và tự nguyện tham gia nghiên cứu.
– Các bệnh nhân phải theo đủ tối thiểu 2 trong 3 chu kỳ hóa trị liệu tân bổ trợ.
– Có hồ sơ lưu trữ đầy đủ.
* Tiêu chuẩn loại trừ với nhóm nghiên cứu
– Thể mô bệnh học không phải là ung thư biểu mô tế bào vẩy.
– Đang mắc các bệnh phối hợp nặng: bệnh tim mạch, rối loạn tâm thần, nhiễm trùng cấp…
– Tiền sử điều trị các bệnh ác tính khác trong vòng 5 năm qua.
– Đang mang thai hoặc cho con bú.
– Từ chối tham gia nghiên cứu.
* Phác đồ TCF.
Docetaxel 75 mg/m2 da hoặc Paclitaxel 175 mg/m2 da ngày 1; Cisplatin 75 mg/m2 da ngày 1;
5 – Fluouracil 750 mg/m2 da ngày 2 – 6.
* Đánh giá đáp ứng điều trị theo RECIST năm 2005, đánh giá độc tính theo CTCAE (Common Terminology for Adverse Events) phiên bản 4.0 của NCI (National Cancer Institute).
* Các số liệu nghiên cứu được xử lý bằng các thuật toán thống kê y học, theo chương trình Epidata và Stata 10.0.
* Khía cạnh đạo đức nghiên cứu
– Phác đồ TCF tân bổ trợ, sau đó hóa xạ đồng thời bằng Cisplatin đã được nhiều thử nghiệm pha III nghiên cứu và tổng kết cho thấy kết quả tốt hơn các phương thức khác.
– Nghiên cứu này là hoàn toàn tự nguyện và chỉ nhằm mục đích nâng cao chất lượng điều trị cho người bệnh, không nhằm mục đích nào khác. Những bệnh nhân hội đủ tiêu chuẩn lựa chọn sẽ được giải thích chi tiết về lợi ích cũng như bất lợi có thể gặp trong nghiên cứu, và chỉ khi họ đồng ý tham gia mới được áp dụng liệu trình điều trị.
– Tất cả các thông tin chi tiết về tình trạng bệnh tật của người bệnh được mã hoá và bảo mật kỹ càng.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích