HIỆU QUẢ SỬ DỤNG GẠO TĂNG CƯỜNG SẮT, KẼM TỚI TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA PHỤ NỮ 20-49 TUỔI VÙNG NÔNG THÔN TỈNH THÁI BÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC HIỆU QUẢ SỬ DỤNG GẠO TĂNG CƯỜNG SẮT, KẼM TỚI TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA PHỤ NỮ 20-49 TUỔI VÙNG NÔNG THÔN TỈNH THÁI BÌNH. Thiếu năng lượng trường diễn gây ra nhiều hậu quả cho phụ nữ tuổi sinh đẻ, như dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn và giảm khả năng đáp ứng miễn dịch dẫn đến chậm hồi phục khi mắc bệnh. Thiếu năng lượng trường diễn cũng làm tăng tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng do đó dẫn đến các biểu hiện thiếu vi chất đặc hiệu như thiếu máu, các rối loạn do thiếu I-ốt v.v…[1], [2], [3], [4]. Một số chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể con người thường bị thiếu đó là sắt, vitamin A, kẽm và tình trạng thiếu các chất này là rất phổ biến ở các nước đang phát triển, làm ảnh hưởng tới sự phát triển thể lực, trí lực, tăng tỷ lệ mắc bệnh và tăng tỷ lệ tử vong [5], [6]. Trên thế giới tình trạng thiếu năng lượng trường diễn và thiếu vi chất như sắt, kẽm ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ vẫn phổ biến tại các nước chậm và đang phát triển.
Tại Ấn Độ cho thấy tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 41,5% [7], tại Bangladesh là 37,0% [8]. Tỉ lệ thiếu máu ở Somalia là 44,4%, ở Nam Phi là 26,0%, ở Botswana là 30,2% [9]. Tại Azerbaijan, tỉ lệ thiếu máu là 38,2%, thiếu sắt 34,1%, thiếu folate 35,0% và thiếu vitamin B12 là 19,7% [10]. Tỉ lệ thiếu kẽm nhóm ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại Bangladesh là 57,3%, Cameroon là 81,6%, Campuchia là 62,8% và Ecuador là 56% [11]. Ở Việt Nam, trong những năm qua, đã có nhiều chương trình, hoạt động can thiệp nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng và thiếu vi chất dinh dưỡng được triển khai trên cả nước cũng như ở các địa bàn trọng điểm và đã thu được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, mức độ giảm không đồng đều giữa các nhóm đối tượng, các vùng, các khu vực. Tỷ lệ vẫn còn cao ở vùng nông thôn và miền núi, đặc biệt nhóm phụ nữ tuổi sinh đẻ. Theo các điều tra gần đây cho thấy tại Việt Nam, tỷ lệ nhóm thiếu năng lượng trường diễn nhóm phụ nữ tuổi sinh đẻ tại tỉnh Bắc Giang là 39,1% [12], tại Thừa Thiên Huế là 26,4% [13], tại tỉnh Tuyên Quang là 22,2% [14], tại An Giang là 19,9% [15]. Điều tra quốc gia về vi chất dinh dưỡng năm 2014, 2015 của Viện Dinh dưỡng cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ trên toàn quốc là 25,5%, thiếu sắt là 23,6%, tỷ lệ thiếu kẽm là 63,6% [16], tại2 tỉnh Thái Nguyên tỷ lệ thiếu thiếu máu là 25,5% [17], tại một số tỉnh Tây Bắc Bộ tỷ lệ thiếu kẽm ở phụ nữ 15 – 35 tuổi là 86,8% [18]. Mục tiêu Chiến lược quốc gia dinh dưỡng giai đoạn 2011 đến 2020 giảm tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ xuống còn 15% vào năm 2015 và dưới 12% vào năm 2020. Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai giảm còn 28% vào năm 2015 và 23% năm 2020. Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm còn 20% vào năm 2015 và 15% năm 2020 [19]. Hiện nay, trên thế giới có 3 giải pháp can thiệp phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng phổ biến đó là, đa dạng hóa chế độ ăn, tăng cường vi chất trong thực phẩm và bổ sung vi chất dinh dưỡng. Trong đó giải pháp tăng cường vi chất vào thực phẩm mang lại hiệu quả chậm hơn nhưng có tác động rộng rãi và bền vững hơn. Đồng thời, đây cũng là giải pháp đã được thực hiện ở một số nước đang phát triển và đạt được những thành công đáng kể [20], [21]. Trong giải pháp can thiệp này, hiện nay người ta chọn tăng cường vi chất vào gạo là một giải pháp phù hợp nhất, đặc biệt tại các khu vực sử dụng gạo là nguồn lương thực chính, do khả năng tiêu thụ rộng rãi, khả năng chấp nhận của cộng đồng [22]. Trên thực tế, hiện tại có 5 quốc gia có luật để tăng cường vi chất vào thực phẩm và nhiều quốc gia khác đang quan tâm đến vấn đề này [23]. Năm 2009, Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra các giải pháp và cung cấp thông tin bằng chứng cho các can thiệp hiệu quả để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tình trạng thiếu hụt vitamin và khoáng chất. Trong đó tăng cường vào thực phẩm như một biện pháp can thiệp sức khỏe cộng đồng an toàn và hiệu quả, bao gồm cả việc tăng cường sắt và các vi chất dinh dưỡng khác trong gạo [24]. Gạo là nguồn lương thực chính trong bữa ăn hàng ngày của người dân Việt Nam với mức tiêu thụ trung bình của người trưởng thành khoảng 350g/người/ngày. Thái Bình là một vùng đất nông nghiệp phát triển từ lâu gắn liền với nền văn hóa lúa nước, có nhiều làng nghề truyền thống từ lâu đời nay, với nhiều sản phẩm nổi tiếng cả nước. Hiện nay, các huyện đã hình thành những cụm công nghiệp làng nghề thu hút nhiều cơ sở sản xuất, doanh nghiệp vừa và lớn tham gia với nhiều sản phẩm xuất khẩu, làm cho đối sống của người dân ngày càng được3 nâng cao. Cho đến nay, tại tỉnh Thái Bình những dẫn liệu khoa học đầy đủ về tình trạng dinh dưỡng của nhóm phụ nữ tuổi sinh đẻ chưa đầy đủ và không cập nhật, có rất ít chương trình can thiệp dinh dưỡng, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào về tăng cường sắt, kẽm được triển khai. Vì vậy, chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu tăng cường sắt, kẽm vào gạo, bằng cách tạo hạt premix, trộn với gạo thường để sử dụng trong bữa ăn hàng ngày của người dân ở vùng nông thôn tỉnh Thái Bình. Từ kết quả của đề tài, xây dựng được mô hình can thiệp phù hợp cũng như đưa ra bằng chứng khoa học nhằm giảm tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, thiếu máu, thiếu vi chất trên đối tượng phụ nữ 20-49 tuổi, để tăng năng suất lao động cũng bảo vệ tốt những đứa con mà họ sinh ra. Thêm vào đó, kết quả của đề tài có thể kiến nghị trong Chiến lược Dinh dưỡng Quốc gia giai đoạn 2025 đến 2030 và chính sách bắt buộc tăng cường vi chất vào thực phẩm của Chính phủ, nhằm giảm tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, giảm tỷ lệ thiếu máu, thiếu vi chất ở phụ nữ 20-49 tuổi. Mục tiêu chung: Đánh giá hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm đến tình trạng dinh dưỡng của phụ nữ 20-49 tuổi. Mục tiêu cụ thể: 1. Đánh giá tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, thiếu máu và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ 20-49 tuổi tại 2 xã Minh Khai và Nguyên Xá thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. 2. Đánh giá hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm sau 12 tháng can thiệp lên một số chỉ số nhân trắc của phụ nữ 20-49 tuổi. 3. Đánh giá hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm sau 12 tháng can thiệp lên tình trạng vi chất của phụ nữ 20-49 tuổiThiếu năng lượng trường diễn gây ra nhiều hậu quả cho phụ nữ tuổi sinh đẻ, như dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn và giảm khả năng đáp ứng miễn dịch dẫn đến chậm hồi phục khi mắc bệnh. Thiếu năng lượng trường diễn cũng làm tăng tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng do đó dẫn đến các biểu hiện thiếu vi chất đặc hiệu như thiếu máu, các rối loạn do thiếu I-ốt v.v…[1], [2], [3], [4]. Một số chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể con người thường bị thiếu đó là sắt, vitamin A, kẽm và tình trạng thiếu các chất này là rất phổ biến ở các nước đang phát triển, làm ảnh hưởng tới sự phát triển thể lực, trí lực, tăng tỷ lệ mắc bệnh và tăng tỷ lệ tử vong [5], [6]. Trên thế giới tình trạng thiếu năng lượng trường diễn và thiếu vi chất như sắt, kẽm ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ vẫn phổ biến tại các nước chậm và đang phát triển. Tại Ấn Độ cho thấy tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 41,5% [7], tại Bangladesh là 37,0% [8]. Tỉ lệ thiếu máu ở Somalia là 44,4%, ở Nam Phi là 26,0%, ở Botswana là 30,2% [9]. Tại Azerbaijan, tỉ lệ thiếu máu là 38,2%, thiếu sắt 34,1%, thiếu folate 35,0% và thiếu vitamin B12 là 19,7% [10]. Tỉ lệ thiếu kẽm nhóm ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại Bangladesh là 57,3%, Cameroon là 81,6%, Campuchia là 62,8% và Ecuador là 56% [11]. Ở Việt Nam, trong những năm qua, đã có nhiều chương trình, hoạt động can thiệp nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng và thiếu vi chất dinh dưỡng được triển khai trên cả nước cũng như ở các địa bàn trọng điểm và đã thu được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, mức độ giảm không đồng đều giữa các nhóm đối tượng, các vùng, các khu vực. Tỷ lệ vẫn còn cao ở vùng nông thôn và miền núi, đặc biệt nhóm phụ nữ tuổi sinh đẻ. Theo các điều tra gần đây cho thấy tại Việt Nam, tỷ lệ nhóm thiếu năng lượng trường diễn nhóm phụ nữ tuổi sinh đẻ tại tỉnh Bắc Giang là 39,1% [12], tại Thừa Thiên Huế là 26,4% [13], tại tỉnh Tuyên Quang là 22,2% [14], tại An Giang là 19,9% [15]. Điều tra quốc gia về vi chất dinh dưỡng năm 2014, 2015 của Viện Dinh dưỡng cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ trên toàn quốc là 25,5%, thiếu sắt là 23,6%, tỷ lệ thiếu kẽm là 63,6% [16], tại2 tỉnh Thái Nguyên tỷ lệ thiếu thiếu máu là 25,5% [17], tại một số tỉnh Tây Bắc Bộ tỷ lệ thiếu kẽm ở phụ nữ 15 – 35 tuổi là 86,8% [18]. Mục tiêu Chiến lược quốc gia dinh dưỡng giai đoạn 2011 đến 2020 giảm tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ xuống còn 15% vào năm 2015 và dưới 12% vào năm 2020. Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai giảm còn 28% vào năm 2015 và 23% năm 2020. Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm còn 20% vào năm 2015 và 15% năm 2020 [19]. Hiện nay, trên thế giới có 3 giải pháp can thiệp phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng phổ biến đó là, đa dạng hóa chế độ ăn, tăng cường vi chất trong thực phẩm và bổ sung vi chất dinh dưỡng. Trong đó giải pháp tăng cường vi chất vào thực phẩm mang lại hiệu quả chậm hơn nhưng có tác động rộng rãi và bền vững hơn. Đồng thời, đây cũng là giải pháp đã được thực hiện ở một số nước đang phát triển và đạt được những thành công đáng kể [20], [21]. Trong giải pháp can thiệp này, hiện nay người ta chọn tăng cường vi chất vào gạo là một giải pháp phù hợp nhất, đặc biệt tại các khu vực sử dụng gạo là nguồn lương thực chính, do khả năng tiêu thụ rộng rãi, khả năng chấp nhận của cộng đồng [22]. Trên thực tế, hiện tại có 5 quốc gia có luật để tăng cường vi chất vào thực phẩm và nhiều quốc gia khác đang quan tâm đến vấn đề này [23]. Năm 2009, Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra các giải pháp và cung cấp thông tin bằng chứng cho các can thiệp hiệu quả để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tình trạng thiếu hụt vitamin và khoáng chất. Trong đó tăng cường vào thực phẩm như một biện pháp can thiệp sức khỏe cộng đồng an toàn và hiệu quả, bao gồm cả việc tăng cường sắt và các vi chất dinh dưỡng khác trong gạo [24]. Gạo là nguồn lương thực chính trong bữa ăn hàng ngày của người dân Việt Nam với mức tiêu thụ trung bình của người trưởng thành khoảng 350g/người/ngày. Thái Bình là một vùng đất nông nghiệp phát triển từ lâu gắn liền với nền văn hóa lúa nước, có nhiều làng nghề truyền thống từ lâu đời nay, với nhiều sản phẩm nổi tiếng cả nước. Hiện nay, các huyện đã hình thành những cụm công nghiệp làng nghề thu hút nhiều cơ sở sản xuất, doanh nghiệp vừa và lớn tham gia với nhiều sản phẩm xuất khẩu, làm cho đối sống của người dân ngày càng được3 nâng cao. Cho đến nay, tại tỉnh Thái Bình những dẫn liệu khoa học đầy đủ về tình trạng dinh dưỡng của nhóm phụ nữ tuổi sinh đẻ chưa đầy đủ và không cập nhật, có rất ít chương trình can thiệp dinh dưỡng, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào về tăng cường sắt, kẽm được triển khai. Vì vậy, chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu tăng cường sắt, kẽm vào gạo, bằng cách tạo hạt premix, trộn với gạo thường để sử dụng trong bữa ăn hàng ngày của người dân ở vùng nông thôn tỉnh Thái Bình. Từ kết quả của đề tài, xây dựng được mô hình can thiệp phù hợp cũng như đưa ra bằng chứng khoa học nhằm giảm tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, thiếu máu, thiếu vi chất trên đối tượng phụ nữ 20-49 tuổi, để tăng năng suất lao động cũng bảo vệ tốt những đứa con mà họ sinh ra. Thêm vào đó, kết quả của đề tài có thể kiến nghị trong Chiến lược Dinh dưỡng Quốc gia giai đoạn 2025 đến 2030 và chính sách bắt buộc tăng cường vi chất vào thực phẩm của Chính phủ, nhằm giảm tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, giảm tỷ lệ thiếu máu, thiếu vi chất ở phụ nữ 20-49 tuổi. Mục tiêu chung: Đánh giá hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm đến tình trạng dinh dưỡng của phụ nữ 20-49 tuổi. Mục tiêu cụ thể: 1. Đánh giá tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, thiếu máu và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ 20-49 tuổi tại 2 xã Minh Khai và Nguyên Xá thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. 2. Đánh giá hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm sau 12 tháng can thiệp lên một số chỉ số nhân trắc của phụ nữ 20-49 tuổi. 3. Đánh giá hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm sau 12 tháng can thiệp lên tình trạng vi chất của phụ nữ 20-49 tuổi.Thiếu năng lượng trường diễn gây ra nhiều hậu quả cho phụ nữ tuổi sinh đẻ, như dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn và giảm khả năng đáp ứng miễn dịch dẫn đến chậm hồi phục khi mắc bệnh. Thiếu năng lượng trường diễn cũng làm tăng tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng do đó dẫn đến các biểu hiện thiếu vi chất đặc hiệu như thiếu máu, các rối loạn do thiếu I-ốt v.v…[1], [2], [3], [4]. Một số chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể con người thường bị thiếu đó là sắt, vitamin A, kẽm và tình trạng thiếu các chất này là rất phổ biến ở các nước đang phát triển, làm ảnh hưởng tới sự phát triển thể lực, trí lực, tăng tỷ lệ mắc bệnh và tăng tỷ lệ tử vong [5], [6].
Trên thế giới tình trạng thiếu năng lượng trường diễn và thiếu vi chất như sắt, kẽm ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ vẫn phổ biến tại các nước chậm và đang phát triển. Tại Ấn Độ cho thấy tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 41,5% [7], tại Bangladesh là 37,0% [8]. Tỉ lệ thiếu máu ở Somalia là 44,4%, ở Nam Phi là 26,0%, ở Botswana là 30,2% [9]. Tại Azerbaijan, tỉ lệ thiếu máu là 38,2%, thiếu sắt 34,1%, thiếu folate 35,0% và thiếu vitamin B12 là 19,7% [10]. Tỉ lệ thiếu kẽm nhóm ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại Bangladesh là 57,3%, Cameroon là 81,6%, Campuchia là 62,8% và Ecuador là 56% [11].
Ở Việt Nam, trong những năm qua, đã có nhiều chương trình, hoạt động can thiệp nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng và thiếu vi chất dinh dưỡng được triển khai trên cả nước cũng như ở các địa bàn trọng điểm và đã thu được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, mức độ giảm không đồng đều giữa các nhóm đối tượng, các vùng, các khu vực. Tỷ lệ vẫn còn cao ở vùng nông thôn và miền núi, đặc biệt nhóm phụ nữ tuổi sinh đẻ. Theo các điều tra gần đây cho thấy tại Việt Nam, tỷ lệ nhóm thiếu năng lượng trường diễn nhóm phụ nữ tuổi sinh đẻ tại tỉnh Bắc Giang là 39,1% [12], tại Thừa Thiên Huế là 26,4% [13], tại tỉnh Tuyên Quang là 22,2% [14], tại An Giang là 19,9% [15]. Điều tra quốc gia về vi chất dinh dưỡng năm 2014, 2015 của Viện Dinh dưỡng cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ trên toàn quốc là 25,5%, thiếu sắt là 23,6%, tỷ lệ thiếu kẽm là 63,6% [16], tại2 tỉnh Thái Nguyên tỷ lệ thiếu thiếu máu là 25,5% [17], tại một số tỉnh Tây Bắc Bộ tỷ lệ thiếu kẽm ở phụ nữ 15 – 35 tuổi là 86,8% [18]. Mục tiêu Chiến lược quốc gia dinh dưỡng giai đoạn 2011 đến 2020 giảm tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ xuống còn 15% vào năm 2015 và dưới 12% vào năm 2020. Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai giảm còn 28% vào năm 2015 và 23% năm 2020. Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm còn 20% vào năm 2015 và 15% năm 2020 [19].
Hiện nay, trên thế giới có 3 giải pháp can thiệp phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng phổ biến đó là, đa dạng hóa chế độ ăn, tăng cường vi chất trong thực phẩm và bổ sung vi chất dinh dưỡng. Trong đó giải pháp tăng cường vi chất vào thực phẩm mang lại hiệu quả chậm hơn nhưng có tác động rộng rãi và bền vững hơn. Đồng thời, đây cũng là giải pháp đã được thực hiện ở một số nước đang phát triển và đạt được những thành công đáng kể [20], [21]. Trong giải pháp can thiệp này, hiện nay người ta chọn tăng cường vi chất vào gạo là một giải pháp phù hợp nhất, đặc biệt tại các khu vực sử dụng gạo là nguồn lương thực chính, do khả năng tiêu thụ rộng rãi, khả năng chấp nhận của cộng đồng [22]. Trên thực tế, hiện tại có 5 quốc gia có luật để tăng cường vi chất vào thực phẩm và nhiều quốc gia khác đang quan tâm đến vấn đề này [23]. Năm 2009, Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra các giải pháp và cung cấp thông tin bằng chứng cho các can thiệp hiệu quả để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tình trạng thiếu hụt vitamin và khoáng chất. Trong đó tăng cường vào thực phẩm như một biện pháp can thiệp sức khỏe cộng đồng an toàn và hiệu quả, bao gồm cả việc tăng cường sắt và các vi chất dinh dưỡng khác trong gạo [24]. Gạo là nguồn lương thực chính trong bữa ăn hàng ngày của người dân Việt Nam với mức tiêu thụ trung bình của người trưởng thành khoảng 350g/người/ngày.
Thái Bình là một vùng đất nông nghiệp phát triển từ lâu gắn liền với nền văn hóa lúa nước, có nhiều làng nghề truyền thống từ lâu đời nay, với nhiều sản phẩm nổi tiếng cả nước. Hiện nay, các huyện đã hình thành những cụm công nghiệp làng nghề thu hút nhiều cơ sở sản xuất, doanh nghiệp vừa và lớn tham gia với nhiều sản phẩm xuất khẩu, làm cho đối sống của người dân ngày càng được3 nâng cao. Cho đến nay, tại tỉnh Thái Bình những dẫn liệu khoa học đầy đủ về tình trạng dinh dưỡng của nhóm phụ nữ tuổi sinh đẻ chưa đầy đủ và không cập nhật, có rất ít chương trình can thiệp dinh dưỡng, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào về tăng cường sắt, kẽm được triển khai. Vì vậy, chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu tăng cường sắt, kẽm vào gạo, bằng cách tạo hạt premix, trộn với gạo thường để sử dụng trong bữa ăn hàng ngày của người dân ở vùng nông thôn tỉnh Thái Bình.
Từ kết quả của đề tài, xây dựng được mô hình can thiệp phù hợp cũng như đưa ra bằng chứng khoa học nhằm giảm tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, thiếu máu, thiếu vi chất trên đối tượng phụ nữ 20-49 tuổi, để tăng năng suất lao động cũng bảo vệ tốt những đứa con mà họ sinh ra. Thêm vào đó, kết quả của đề tài có thể kiến nghị trong Chiến lược Dinh dưỡng Quốc gia giai đoạn 2025 đến 2030 và chính sách bắt buộc tăng cường vi chất vào thực phẩm của Chính phủ, nhằm giảm tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, giảm tỷ lệ thiếu máu, thiếu vi chất ở phụ nữ 20-49 tuổi.
Mục tiêu chung:
Đánh giá hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm đến tình trạng dinh
dưỡng của phụ nữ 20-49 tuổi.
Mục tiêu cụ thể:
1. Đánh giá tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, thiếu máu và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ 20-49 tuổi tại 2 xã Minh Khai và Nguyên Xá thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
2. Đánh giá hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm sau 12 tháng can thiệp lên một số chỉ số nhân trắc của phụ nữ 20-49 tuổi.
3. Đánh giá hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm sau 12 tháng can thiệp lên tình trạng vi chất của phụ nữ 20-49 tuổi
MỤC LỤC Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC PHỤ LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ 4
1.2. Vi chất và thiếu vi chất dinh dưỡng 10
1.3. Tổng quan các phương pháp can thiệp phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng
hiện nay
18
Chương II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 40
2.1. Một số nét cơ bản về địa bàn nghiên cứu 40
2.2. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 40
2.3. Phương pháp và cỡ mẫu nghiên cứu 42
2.4. Chỉ số và biến số nghiên cứu 48
2.5. Giám sát triển khai 52
2.6. Quá trình tổ chức nghiên cứu 52
2.7. Phân tích số liệu 57ii
2.8. Các sai số có thể mắc phải và biện pháp khắc phục 59
2.9. Đạo đức nghiên cứu 60
Chương III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 62
3.1. Đánh giá tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, thiếu máu và một số yếu tố liên
quan ở phụ nữ tuổi sinh đẻ 20-49 tuổi tại 2 xã Minh Khai và Nguyên Xá thuộc
huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
62
3.2. Hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm sau 12 tháng can thiệp lên chỉ
số nhân trắc của phụ nữ 20-49 tuổi
70
3.2.1. Số lượng mẫu tại từng thời điểm nghiên cứu 70
3.2.2. Một số đặc điểm khẩu phần trước và sau can thiệp 72
3.2.3. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng trước can thiệp 74
3.2.4. Hiệu quả can thiệp đến sự thay đổi chỉ số nhân trắc 75
3.3. Hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm sau 12 tháng can thiệp lên tình
trạng vi chất của phụ nữ 20-49 tuổi
79
3.3.1. Chỉ số sinh hoá của hai nhóm tại thời điểm trước can thiệp 79
3.3.2. Hiệu quả cải thiện nồng độ hemoglobin và tình trạng thiếu máu sau
can thiệp
80
3.3.3. Hiệu quả cải thiện nồng độ ferritin sau can thiệp 83
3.3.4. Hiệu quả cải thiện nồng độ Transferritin receptor sau can thiệp 86
3.3.5. Hiệu quả cải thiện nồng độ kẽm sau can thiệp 89
3.3.6. Hiệu quả cải thiện nồng độ vitamin A sau can thiệp 92
CHƯƠNG IV: BÀN LUẬN 97
4.1. Đánh giá tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, thiếu máu và một số yếu tố liên
quan ở phụ nữ tuổi sinh đẻ 20-49 tuổi tại 2 xã Minh Khai và Nguyên Xá thuộc
huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
97iii
4.2. Hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm sau 12 tháng can thiệp lên chỉ
số nhân trắc của phụ nữ 20-49 tuổi
106
4.2.1. Một số đặc điểm của đối tượng trước can thiệp 106
4.2.2. Một số đặc điểm khẩu phần trước và sau can thiệp 106
4.2.3. Hiệu quả can thiệp đến sự thay đổi chỉ số nhân trắc 109
4.3. Hiệu quả sử dụng gạo tăng cường sắt, kẽm sau 12 tháng can thiệp lên tình
trạng vi chất của phụ nữ 20-49 tuổi
111
4.3.1. Hiệu quả cải thiện tình trạng thiếu máu, thiếu sắt sau can thiệp 113
4.3.2. Hiệu quả cải thiện tình trạng thiếu kẽm sau can thiệp 118
4.3.3. Hiệu quả cải thiện tình trạng vitamin A sau can thiệp 121
4.4. Một số hạn chế của Luận án 124
4.5. Những đóng góp mới của Luận án 125
KẾT LUẬN 126
KHUYẾN NGHỊ 128
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ
CÔNG BỐ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG Trang
Bảng 3.1. Trung bình chỉ số nhân trắc, hemoglobin của đối tượng theo xã 62
Bảng 3.2. Phân bố tình trạng dinh dưỡng theo xã 62
Bảng 3.3. Phân bố tỷ lệ thiếu máu theo xã 63
Bảng 3.4. Kết quả phân tích đơn biến một số yếu tố liên quan đến thiếu
năng lượng trường diễn
64
Bảng 3.5. Mô hình hồi qui logistic dự đoán một số yếu tố liên quan đến
tình trạng thiếu năng lượng trường diễn
65
Bảng 3.6. Mô hình hồi qui độc lập sau hiệu chỉnh dự đoán một số yếu tố
liên quan đến tình trạng thiếu năng lượng trường diễn
67
Bảng 3.7. Kết quả phân tích đơn biến một số yếu tố liên quan đến tình
trạng thiếu máu
67
Bảng 3.8. Mô hình hồi qui logistic dự đoán một số yếu tố liên quan đến
tình trạng thiếu máu
69
Bảng 3.9. Mô hình hồi quy độc lập sau hiệu chỉnh dự đoán một số yếu tố
liên quan đến tình trạng thiếu máu
70
Bảng 3.10. Một số đặc điểm chung của đối tượng trước can thiệp 70
Bảng 3.11. Giá trị dinh dưỡng khẩu phần của đối tượng trước can thiệp 72
Bảng 3.12. Giá trị dinh dưỡng khẩu phần của đối tượng sau can thiệp 73
Bảng 3.13. Tính cân đối khẩu phần của đối tượng trước và sau can thiệp 74
Bảng 3.14. Đặc điểm tuổi, nhân trắc của đối tượng trước can thiệp 74
Bảng 3.15. Thay đổi chỉ số cân nặng sau can thiệp 75
Bảng 3.16. Thay đổi chỉ số BMI sau can thiệp 76
Bảng 3.17. Hiệu quả phòng bệnh đến tình trạng thiếu năng lượng trường
diễn sau can thiệp
77
Bảng 3.18. Hiệu quả hỗ trợ điều trị bệnh đến đến tình trạng thiếu năng
lượng trường diễn sau can thiệp
78vii
Bảng 3.19. Chỉ số sinh hoá của hai nhóm tại thời điểm trước can thiệp 79
Bảng 3.20. Thay đổi nồng độ hemoglobin trung bình sau can thiệp 80
Bảng 3.21. Hiệu quả phòng bệnh đến tình trạng thiếu máu 81
Bảng 3.22. Hiệu quả hỗ trợ điều trị bệnh đến tình trạng thiếu máu 82
Bảng 3.23. Thay đổi nồng độ ferritin trước và sau can thiệp 83
Bảng 3.24. Hiệu quả phòng bệnh đến tình trạng thiếu sắt 84
Bảng 3.25. Hiệu quả hỗ trợ điều trị bệnh đến tình trạng thiếu sắt 84
Bảng 3.26. Hiệu quả hỗ trợ điều trị bệnh đến tình trạng thiếu máu thiếu sắt 85
Bảng 3.27. Thay đổi nồng độ Transferrin receptor huyết thanh sau can
thiệp
86
Bảng 3.28. Hiệu quả phòng bệnh đến tình trạng Transferrin receptor 87
Bảng 3.29. Hiệu quả hỗ trợ điều trị bệnh đến tình trạng Transferrin receptor 87
Bảng 3.30. Thay đổi nồng độ kẽm sau can thiệp 89
Bảng 3.31. Hiệu quả phòng bệnh đến tình trạng thiếu kẽm 90
Bảng 3.32. Hiệu quả hỗ trợ điều trị bệnh đến tình trạng thiếu kẽm 90
Bảng 3.33. Thay đổi nồng độ vitamin A sau can thiệp 92
Bảng 3.34. Hiệu quả phòng bệnh đến tình trạng thiếu vitamin A 93
Bảng 3.35. Hiệu quả hỗ trợ điều trị bệnh đến tình trạng thiếu vitamin A 93
Bảng 3.36. Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến ảnh hưởng đến sự thay đổi
nồng độ hemoglobin
94
Bảng 3.37. Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến ảnh hưởng đến sự thay đổi
nồng độ kẽm
95viii
DANH MỤC HÌNH Trang
Hình 2.1. Tóm tắt sơ đồ nghiên cứu 47
Hình 3.1. Mức tăng cân nặng trung bình sau can thiệp 76
Hình 3.2. Mức tăng BMI trung bình sau can thiệp 77
Hình 3.3. So sánh chênh lệch nồng độ hemoglobin trước sau can thiệp 81
Hình 3.4. So sánh chênh lệch nồng độ ferritin trước sau can thiệp 83
Hình 3.5. So sánh chênh lệch nồng độ sTfR trước sau can thiệp 86
Hình 3.6. So sánh chênh lệch nồng độ kẽm trước sau can thiệp 88
Hình 3.7. So sánh chênh lệch nồng độ vitamin A trước sau can thiệp 9
Nguồn: https://luanvanyhoc.com