HIỆU QUẢ THẢI SẮT ĐƯỜNG UỐNG CỦA DEFERIPRONE TRONG BỆNH THALASSEMIA TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
HIỆU QUẢ THẢI SẮT ĐƯỜNG UỐNG CỦA DEFERIPRONE TRONG BỆNH THALASSEMIA TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Nguyễn Thị Mai Lan
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm ferritin máu cũng như tác dụng phụ của thuốc thải sắt đường uống deferiprone trên bệnh nhi Thalassemia ứ sắt.
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả, tiên cứu. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên những bệnh nhân được chẩn đoán Thalassemia có ferritin máu > 1000 ng/ml nhập viện vào bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 3 năm 2010 đến tháng 7 năm 2011, được sử dụng Deferiprone 75 mg/kg/ngày. Những bệnh nhân này được thăm khám lâm sàng, đánh giá tác dụng phụ của thuốc, sốlượng máu truyền và thời gian lưu trữ bịch máu trước khi truyền, kiểm tra huyết đồ mỗi tháng, đo ferritin máu và chức năng gan trước điêu trị và mỗi 3 tháng trong suốt thời gian nghiên cứu.
Kết quả: Có 32 trường hợp Thalassemia nghiên cứu với tuổi trung bình 62,5 ± 25 tháng (từ 24 – 120 tháng). Thời gian theo dõi từ 3 tháng đến 15 tháng. Nồng độ ferritin trung bình trước là 1741 ng/ml ±580,5 ng/ml và tại thời điểm kết thúc nghiên cứu là 1397 ng/ml ± 865 ng/ml (p = 0,032). Tỉ lệ bệnh nhân dùng Deferiprone có đáp ứng giảm ferritin máu là 75%, tỉ lệ bệnh nhân không đáp ứng (ferritin tiếp tục tăng) là 25%. Tỉ lệ bệnh nhân đạt được giảm trị số tuyệt đối ferritin máu < 1000 ng/ml là 46,88%. Tỉ lệ đáp ứng giảm trị số tuyệt đối ferritin máu < 1000 ng/ml sau 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng ĩân lượt là 12,5%, 21,88%, 9,38% và 3,12%. Tác dụng phụ của thuốc gồm rối loạn tiêu hóa 9,4%, đau khớp 6,2%, giảm bạch câu hạt 3,1%. Tỷ lệ bệnh nhân không bị tác dụng phụ là 81,3%.
Kết luận: Deferiprone có hiệu quả trong việc giảm ferritin máu ở bệnh nhân Thalassemia ứ sắt, truyền máu định kỳ. Thuốc an toàn, ít tác dụng phụ và được dung nạp tốt.
TONG QUAN
Thalassemia là bệnh lý thiếu máu tán huyết di truyềnđượcmôtảlầnđầutiênbởiBácsĩ
Cooley vào năm 1925 vói tên gọi bệnh thiếu máu Cooley, Thalassemia*5’9’4*. Tên bệnh được gọi dựa theo chuỗi globin bị giảm, ví dụ: Giảm tổng hợp chuỗi gọi là Thalassemia. Gen tổng hợp chuỗi nằm trên nhiêm sắc thể 16 và gen tổng hợp chuỗi nằm trên nhiêm sắc thể 11, khi đột biến những gen này gây giảm tổng chuỗi globin tương ứng. Bệnh Thalassemialàm cho hồng cầu kém bền vững, đời sống hồng cầu ngắn hơn bình thường, hồng cầu sẽ bị tiêu hủy ở hệ thống võng nội mô gây tình trạng thiếu máu mạn tính.
Thalassemia có nhiều dạng lâm sàng khác nhau, có thể nhẹ chỉ là dạng người mang đột biến gen, không có biểu hiện lâm sàng hay thể nặng biểu hiện thiếu máu tán huyết mạn: da niêm nhạt, vàng da niêm, gan to, lách to, biến dạng xương… cần phải truyền máu định kỳ để duy trì sự sống và phát triển. Truyền máu là một trong những phương pháp điều trị sống còn của bệnh nhân Thalassemia thể nặng, nhưng truyền máu lại là nguyên nhân hàng đầu gây ứ sắt. Lượng sắt dư thừa tích tụ sau nhiều lần truyền máu kết hợp vói tình trạng tăng hấp thu sắt qua đường tiêu hóa do tạo máu không hiệu quả càng làm cho lượng sắt trong cơ thể gia tăng, gây tổn thương các cơ quan như gan, lách, thận, tim, não và hệ nội tiết. Đây cũng chính là nguyên nhân hàng đầu gây giảm tuổi thọ của bệnh nhân. Suy tim và loạn nhịp tim là nguyên nhân gây tử vong thường gặp trên những bệnh nhân này. Vì vậy, những bệnh nhân này cần sử dụng thuốc thải sắt để lấy sắt khỏi cơ thể.
Để giảm lượng sắt cao, thuốc tạo phức hợp với sắt ra đời để kéo sắt ra khỏi các kho nội và ngoại bào, nơi có thể bị tổn thương khi ứ sắt. Trong 30 năm qua, desferioxamin (DFO) đã ra đời và là thuốc duy nhất phục vụ cho mục đích này. Thuốc này không có hoạt tính khi uống và phải dùng đường tiêm dưới da, được truyền chậm trong 8 – 12 giờ để tạo phức sắt vừa đủ và thời giam bán hủy rất ngắn từ 5 – 10 phút. Ngoài trở ngại này thuốc còn nhiều tác dụng độc khi dùng liều cao như tổn thương giác mạc, điếc, chậm phát triển, dê nhiêm trùng Yersinia, dị ứng và tác dụng phụ tại chỗ sưng đỏ, đau… giá thành đắt. Vì lí do này nên nhiều bệnh nhân không có điều kiện cũng như khó tuân thủ điều trị, nên chỉ có một số lượng nhỏ bệnh nhân được hưởng lợi từ phương pháp điều trị này. Điều trị thải sắt trên những bệnh nhân truyền máu đòi hỏi phải dùng chất tạo phức sắt suốt đời. Trong những năm qua, nhân loại đã cố gắng nghiên cứu để cho ra đời một thuốc tạo phức sắt đường uống, an toàn, rẻ tiền để làm giảm tình trạng ứ sắt cũng như giảm tỉ lệ tử vong trên bệnh nhân. Một trong những chất này là deferiprone, 1, 2- dimethyl 3-hydroxypyrid 4-one, đã chứng minh có hiệu quả đường uống trong việc thải trừ sắt ra khỏi cơ thể.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất