HIỆU QUẢ TRUYỀN THÔNG GDSK NÂNG CAO KIẾN THỨC – THỰC HÀNH ĐÚNG PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT HUYẾT CHO NGƯỜI DÂN

HIỆU QUẢ TRUYỀN THÔNG GDSK NÂNG CAO KIẾN THỨC – THỰC HÀNH ĐÚNG PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT HUYẾT CHO NGƯỜI DÂN

HIỆU QUẢ TRUYỀN THÔNG GDSK NÂNG CAO KIẾN THỨC – THỰC HÀNH ĐÚNG PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT HUYẾT CHO NGƯỜI DÂN TẠI XÃ VĨNH HỰU HUYỆN GÒ CÔNG TÂY TỈNH TIỀN GIANG NĂM 2009

Bạch Thị Chính(1), Lê Công Minh(2), Tạ Quốc Đạt(2)
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Xây dựng mô hình xã điểm truyền thông giáo dục sức khỏe (TTGDSK) phù hợp với thực tế của địa phương nhằm nâng cao kiến thức và thực hành đúng của người dân trong việc phòng chống bệnh sốt xuất huyết (SXH), góp phần bảo vệ sức khỏe của người dân, đồng thời có cơ sở nhân rộng mô hình điểm này lan rộng trong tương lai.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định hiệu quả truyền thông trong nâng cao kiến thức và thực hành đúng của người dân về phòng bệnh SXH. Xác định tỉ lệ người dân tiếp cận các hoạt động truyền thông về SXH trước và sau triển khai can thiệp TT-GDSK. 
Phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu can thiệp cộng đồng, tiến hành thông qua các hoạt động truyền thông tại cộng đồng và phỏng vấn trực tiếp người dân tại hộ gia đình trước và sau can thiệp bằng bộ câu hỏi soạn sẵn để đánh giá hiệu quả. Đối tượng được phỏng vấn là chủ hộ hoặc người đại diện tuổi từ 18 trở lên, đồng ý trả lời phỏng vấn và không mắc các bệnh như tâm thần, câm, điếc, …làm ảnh hưởng đến kết quả phỏng vấn.
Kết quả nghiên cứu: Kết quả cho thấy tỉ lệ người dân có kiến thức và thực hành đúng về phòng bệnh SXH được nâng lên sau can thiệp một cách rõ rệt: Tỉ lệ người dân biết muỗi vằn là trung gian truyền bệnh SXH (80%; 87,5%; p<0,05). Tỉ lệ người dân biết SXH là bệnh nguy hiểm có thể gây chết người (60%; 73,5%; p< 0,05). Tỉ lệ người dân biết bệnh SXH chưa có thuốc điều trị và phòng ngừa (2%; 26,5%, p< 0,001). Tỉ lệ người dân biết triệu chứng của SXH là sốt cao liên tục trên 3 ngày (71%; 82%; p<0,01). Tỉ lệ người dân biết SXH có biểu hiện là xuất huyết dưới da (42%; 69%; p<0,001). Tỉ lệ người dân nhận diện được muỗi vằn (54,5%; 88,5%; p< 0,001). Tỉ lệ người dân biết lu, khạp, thùng phuy, bể xi măng chứa nước là nơi muỗi vằn đẻ trứng (65%; 80,5%; p< 0,05). Tỉ lệ người dân nhận được những thông tin phòng bệnh SXH từ truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình (3% – 62,5%), chủ yếu là lực lượng CTV (3%; 52%; p<0,001). Tỉ lệ người dân nhận được thông tin qua các tài liệu truyền thông (3%; 57,5%, p<0,001). Biện pháp mà người dân lựa chọn để soát lăng quăng trong các DDCN ưu tiên từ cao đến thấp như sau: đậy nắp lu, khạp (54,4%; 78,3%), đậy nắp thùng phuy (25%; 72%), đậy nắp hồ xi măng (89,9%; 94,7%); thả cá trong lu, khạp (0,5%; 10%), thả cá trong thùng phuy (0%; 12%); súc rửa bình hoa tươi dưới 7 ngày (0%; 72%) súc rửa lu, khạp dưới 7 ngày (0%; 10%), súc rửa thùng phuy dưới 7 ngày (0%; 12%), xử lý chén chống kiến (0%; 100%).
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy hiệu quả các hoạt động TT-GDSK đã làm nâng cao kiến thức và thực hành đúng của người dân về phòng bệnh SXH, là cơ sở nhân rộng mô hình xã điểm cho các địa phương khác

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment