Hiệu quả và kết quả điều trị ARV ờ bệnh nhi HIV/AIDs tại phòng khám ngoại trú, bệnh viện Nhi Nghệ An

Hiệu quả và kết quả điều trị ARV ờ bệnh nhi HIV/AIDs tại phòng khám ngoại trú, bệnh viện Nhi Nghệ An

Tuân thủ điều trị là yếu tố sống còn quyết định sự thành công trong điều trị ARV ở bệnh nhân HIV/ AIDs. Phòng khám ngoại trú bệnh viện Nhi Nghệ An được triển khai từ tháng 8/2008 nhưng cho đến nay chưa được đánh giá về kết quả cũng như sự tuân thủ điều trị của bệnh nhi, gia đình và người chăm sóc trẻ. Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định hiệu quả, tỷ lệ tuân thủ điều trị và một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị ARV ở bệnh nhi HIV/AIDs tại phòng khám ngoại trú bệnh viện Nhi Nghệ An. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhi đáp ứng tốt với điều trị rất cao 92,2%. Tỷ lệ tuân thủ điều trị ARV là 95,7%. Tỷ lệ bệnh nhân có kiến thức và thực hành đúng về tuân thủ điều trị ARV là 84,1%. Bệnh nhân có người trợ giúp tuân thủ điều trị cao hơn bệnh nhân không có người trợ giúp. Để duy trì hiệu quả điều trị, duy trì tỷ lệ tuân thủ điều trị ARV kéo dài sự sống cho người bệnh cần cung cấp cho người nhiễm và người chăm sóc trẻ những kiến thức về tác dụng của thuốc ARV và tạo điều kiện để họ có người trợ giúp.

Cho đến nay, đại dịch HIV/AIDs đã thực sự trở thành vấn đề xã hội, y tế nghiêm trọng trên toàn cầu, không còn một quốc gia hay vùng lãnh thổ nào mà không có người nhiễm [8].
Tại Việt Nam HIV/AIDs đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, số liệu thống kê của Bộ Y tế, tính đến 31/3/2011, số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 185.623, số bệnh nhân AIDs hiện còn sống là 44.701 và đã có 49.912 trường hợp tử vong do AIDs. Toàn quốc có tới 70,51% xã/ phường; 97,53% quận/huyện và 63/63 tỉnh/ thành phố đã phát hiện có người nhiễm HIV [4, 8].
Tại Nghệ An tính đến 31/8/2011 đã phát hiện 7680 trường hợp nhiễm HIV. Trong đó, có 3719 trường hợp nội tỉnh và 540 trường hợp ngoại tỉnh chuyển sang AIDs, có 2113 trường hợp tử vong vì AIDs. 20/20 huyện, thị xã, thành phố, 379/479 xã , phường, thị trấn có người nhiễm HIV/AIDs [10]. Có 70 trẻ bị nhiếm do mẹ truyền sang (1,1%). Rất nhiều trẻ em bị mồ côi bố hoặc mẹ hoặc cả bố lẫn mẹ, phải sống cùng với ông bà hoặc họ hàng.
Tuân thủ điều trị là yếu tố sống còn của điều trị ARV. Để tuân thủ điều trị tốt người nhiễm và những người chăm sóc trẻ phải được tư vấn trước và trong suốt quá trình điều trị. Tham vấn giúp bệnh nhân hiểu tầm quan trọng của tuân thủ điều trị, lợi ích của tuân thủ điều trị trên đáp ứng lâm sàng và miễn dịch với HIV. Ngoài ra tuân thủ điều trị còn giúp bệnh nhân có kiến thức về HIV/ AIDs, tiến triển bệnh, đáp ứng điều trị, đồng thời theo dõi tác dụng phụ của thuốc [1, 2]. Tuân thủ điều trị ARV đòi hỏi người bệnh phải kiên trì vì họ phải đối mặt với những tác dụng phụ của thuốc, phải sử dụng thuốc suốt đời và nghiêm ngặt hơn là phải uống thuốc đúng giờ mỗi ngày, các bệnh nhiễm trùng cơ hội, những thay đổi trong cuộc sống. Tất cả những điều này có thể ảnh hưởng đến quá trình tuân thủ điều trị. Để đánh giá hiệu quả của chương trình điều trị, chăm sóc trẻ HIV/ AIDs và sự tuân thủ điều trị chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục tiêu:
Xác định kết quả điều trị ARV ờ bệnh nhi HIV/AIDs tại phòng khám ngoại trú, bệnh viện Nhi Nghệ An.
Xác định tỷ lệ tuân thủ điều trị ARV và một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị của người chăm sóc trẻ bệnh HIV/AIDs.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tượng nghiên cứu
–    70 bệnh nhi HIV/AIDs từ 1-15 tuổi đã được điều trị ARV và theo dõi tại phòng khám ngoại trú bệnh viện Nhi Nghệ An.
–    Địa điểm nghiên cứu phòng khám ngoại trú nhi tại bệnh viện Nhi Nghệ An.
–    Thời gian nghiên cứu từ tháng 8/2008 đến tháng 8/2011.
2.    Phương pháp nghiên cứu
–    Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
–    Thu thập số liệu: theo mẫu bệnh án.
–    Thuốc điều trị theo phác đồ dự phòng và điều trị HIV/AIDs của Bộ Y tế.
3.    Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân HIV/ AIDs vào điều trị
Bệnh nhân HIV/AIDs được bắt đầu điều trị khi:
–    Bệnh nhân ở giai đoạn I hoặc II có xét nghiệm tế bào CD4 dưới 200 TB/1ml máu hoặc tỷ lệ tế bào CD4 < 15%.
–    Bệnh nhân ở giai đoạn III khi xét nghiệm số lượng tế bào CD4 từ 200 – 350 TB/1ml máu .

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment