HÌNH ẢNH BƯỚU NGUYÊN BÀO MEN TRÊN PHIM CHỤP CẮT LỚP ĐIỆN TOÁN
HÌNH ẢNH BƯỚU NGUYÊN BÀO MEN TRÊN PHIM CHỤP CẮT LỚP ĐIỆN TOÁN
Võ Đắc Tuyến*, Nguyễn Thị Kim Oanh*, Lương Văn Tô My*
TÓM TẮT :
Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng và X-quang của bướu nguyên bào men (BNBM) trên phim toàn cảnh và phim CT. Đồng thời đo trị số hấp thu tia X của mô bướu trên phim CT bằng phần mềm GE Medical Systems trên màn hình máy vi tính, bước đầu nghiên cứu ứng dụng trong chẩn đoán phân biệt giữa BNBM dạng nang và BNBM dạng đặc.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Mẫu nghiên cứu gồm 24 ca BNBM điều trị tại Bệnh Viện Răng Hàm Mặt Trung Ương Tp.HCM từ năm 2011-2012.
Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy BNBM thường gặp ở độ tuổi từ 21-40 tuổi, chiếm tỉ lệ 45,8%. Triệu chứng lâm sàng phổ biến là sưng và biến dạng mặt (76,2%). Đa số bướu xảy ra ở xương hàm dưới (86,4%), đặc biệt là vùng cành ngang-góc hàm và cành đứng (68,4%). Kích thước trung bình BNBM là 5,6 cm, BNBM dạng nang (54,5%) nhiều hơn BNBM dạng đặc (45,5%). Trên phim CT, BNBM thường có dạng thấu quang nhiều hốc (77,3%), giới hạn rõ (73,7%), đường viền cản quang mỏng (86,4%), uốn lượn hoặc vỏ sò (81,4%). 100% bướu gây phồng và thủng vỏ xương. Răng ngầm gặp trong 5 ca BNBM dạng nang dưới 21 tuổi (23,7%). 35,4% bướu gây tiêu ngót chân răng liên quan. BNBM dạng đặc có trị số hấp thu tia X (39,8±12,5 HU) cao hơn BNBM dạng nang (30,5±10,2 HU) gần với ngưỡng có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Phim CT có thể góp phần trong chẩn đoán phân biệt BNBM dạng nang và dạng đặc dựa trên trị số hấp thu tia X của mô bướu. Phối hợp giữa các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh và lâm sàng giúp chẩn đoán bệnh và xây dựng kế hoạch điều trị thích hợp hơn
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất