HÌNH ẢNH SIÊU ÂM ÁP-XE GAN A-MÍP THEO THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA
HÌNH ẢNH SIÊU ÂM ÁP-XE GAN A-MÍP THEO THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA
Nguyễn Thiện Hùng – Phan Thanh Hải
TÓM TẮT :
Mục đích: Thu thập hình ảnh siêu âm các áp-xe gan được điều trị nội khoa theo thời gian nhằm góp phần tìm hiểu quy luật diễn biến (giai đoạn hoại tử, tụ mủ, giai đoạn lành, tạo vỏ bao …) và đáp ứng điều trị theo các phác đồ điều trị hiện hành. Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang, mô tả, tiền cứu. Đối tượng và phương pháp: Gồm siêu âm B-mode và siêu âm màu 55 ca (46 nam, 09 nữ) từ 6 ngày – 10 năm. Kết quả: 1. Đa số áp-xe gan ở gan phải (hpt 7=24/55 ca, hpt 5= hpt 8=7/55 ca, hpt 2= 6/55 ca), thường có dạng tròn đều, và chỉ 1 ổ (49/55 ca), số ca có 2 ổ chỉ có 3/55ca. Gan trái thường ít có áp-xe (12/55 ca, hpt1 = 5/55 ca, hpt2 = 6/55 ca, hpt3 = 1/55 ca). 2. Đặc điểm echo: kém-không giới hạn rõ 1/55 ca (mới), hỗn hợp 9/55 ca, tụ dịch một phần 12/55 ca, tụ dịch hoàn toàn 19/55 ca, dày 1/55 ca, kém-giới hạn rõ với vỏ bao (cũ) 15/55 ca). Không có phổ mạch máu trong ổ áp-xe.Tín hiệu màu xung quanh áp-xe giảm dần theo điều trị. 3. Kích thước nhỏ nhất 1,1cm và lớn nhất 11,15cm. Kích thước luôn giảm đi theo thời gian điều trị. 4. Chỉ các áp-xe điều trị nội (không chọc) mới còn tồn tại thành những tổn thương với vỏ bao echo dày và cấu trúc bên trong echo kém gần bằng hoặc giống chủ mô gan lành.Bàn luận: Hình ảnh áp-xe rất đa dạng tùy thuộc bản chất của chất trong lòng thuộc các giai đoạn tiến triển (giai đoạn cấp=có echo, echo kém (5ngày-1/2 tháng= 3/55 ca), hỗn hợp (5 ngày-2 tháng= 8/55 ca), tụ dịch một phần (1/2 -1 tháng= /55 ca), tụ dịch hoàn toàn (5ngày-4 tháng=12/55 ca) hay có mức dịch-cặn), tổ chức hóa và phục hồi (giai đoạn bán cấp và mạn tính (=tạo vỏ bao (1/2 tháng-3 tháng= 9/55 ca) và đóng vôi vỏ bao). Kết luận: Không có hình ảnh siêu âm đặc hiệu của áp-xe gan a-míp. Đôi khi các áp-xe giai đoạn sớm bị bỏ sót hay lầm lẫn với bướu mạch máu gan, đôi khi khó phân biệt áp-xe gan với bướu gan ác tính có hoại tử hoặc với bướu lành gan hoặc với tổn thương thâm nhiễm (do lao, nấm, Fasciola hay larva migrans) hay cục tăng sinh. Chẩn đoán áp-xe gan không chỉ dựa vào hình ảnh siêu âm theo thời gian mà còn vào lâm sàng (khởi phát, xét nghiệm) và chọc hút áp-xe dưới hướng dẫn của siêu âm trong những trường hợp khó
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất