HỞ VAN BA LÁ NẶNG Ở BỆNH NHÂN SAU PHẪU THUẬT THAY VAN HAI LÁ
Nghiên cứu 55 bệnh nhân (BN) phẫu thuật thay van hai lá do thấp tim không sửa van ba lá. 22/31 BN (70,96%) hở van ba lá nặng sau mổ. Ở những BN không có vấn đề về hậu phẫu van hai lá, 3 yếu tố dự báo hở van ba lá nặng sau mổ là: nhĩ trái trước mổ đo trên siêu âm ≥ 39 mm, thất phải trước mổ đo bằng siêu âm ≤ 13mm, áp lực động mạch phổi tâm thu (ALĐMPTT) ≤ 78 mmHg. Tỷ lệ suy tim độ II ở nhóm BN hở van ba lá nặng sau mổ cao hơn nhóm hở van ba lá không nặng.
Bệnh van hai lá do thấp là bệnh thường gặp ở nước ta. Phẫu thuật thay van hai lá là sự lựa chọn hiệu quả, giúp cải thiện huyết động và chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Tuy nhiên, trong phẫu thuật thay van hai lá, vấn đề được nhiều phẫu thuật viên quan tâm là có nên sửa những tổn thương van ba lá kèm theo hay không?. Trước đây, một số tác giả, trong đó có Braunwald và CS [2] yêu cầu bảo tồn van ba lá vì cho rằng sau phẫu thuật van hai lá,mức độ hở van ba lá sẽ tự giảm dần theo mức giảm của áp lực động mạch phổi. Theo Carpentier (1974): sửa hở van ba lá là cần thiết và nên tiến hành một cách có hệ thống trong phẫu thuật van hai lá [6].Hiện nay, việc phát hiện và sửa chữa hở van
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất