Hóa mô miễn dịch trong u mô đệm vàmột số u trung mô khác của dạ dày-ruột

Hóa mô miễn dịch trong u mô đệm vàmột số u trung mô khác của dạ dày-ruột

U trung mô dạ dày-ruột (GIMT: Gastrointestinal Mesenchymal Tumors) là một trong 2 nhóm u dưới niêm mạc không phải của biểu mô [1], [3], [4], [8]. Mặc dù ít gặp hơn u biểu mô nhưng không phải là hiếm. Trong khi việc phân loại u biểu mô cũng như u dưới niêm mạc không phải u trung mô như u lymphô ác tính, u carcinoid được xác lập khá rõ, thì u trung mô ông tiêu hoá đã có những phát hiện mới và thay đổi trong thời gian gần đây. Đặc biệt kể từ năm 1998 khi Hirota phát hiện một nhóm u trung mô ông tiêu hoá có bộc lộ c-kit (CD117) (nhóm u này được gọi là u mô đệm dạ dày-ruột viết tắt từ tiếng Anh là GIST: Gastrointestinal Stromal Tumors), thì việc phân loại cũng như tiên lượng và điều trị u trung mô ông tiêu hoá có nhiều thay đổi [7].
U mô đệm dạ dày-ruột (GIST) là các u trung mô ông tiêu hoá (Digestive Mesenchymal Tumours) tế bào hình thoi và/hoặc tế bào dạng biểu mô, hầu hết có bộc lộ CD117 (c-kit) (>95%) và có đột biến gen c-kit (75-80%) hoặc PDGFRA (5-10%) [3], [8]. Chưa có số liệu chính xác về tỉ lệ mắc GIST. Chúng chiếm khoảng 10% sacôm chung (tỉ lệ sacôm chiếm khoảng 1% ung thư nói chung). Ở Pháp khoảng 150 đến 300 ca mới được ghi nhận hàng năm[1], [2], [3]. ở Mỹ ghi nhận khoảng 5000 ca hàng năm [4], [8]. Nghiên cứu ở các nước Âu- Mỹ cho thấy GIST nguy cơ cao chiếm khoảng 20-50% GIST chung. Tuổi trung bình 55, cao hơn 5 năm so với sacôm ở chi [3], [8].
Đến nay người ta đặt ra 2 vấn đề đôi với GIST: một là giả thuyết tạo mô học và dòng biệt hoá; hai là tiềm năng ác tính của chúng. Loại u này là một trong những mẫu u được ưu tiên lựa chọn để nghiên cứu về ung thư trên khắp thế giới trong những năm gần đây và trong thời gian tới. Trước đây, loại u này thường được chẩn đoán là u cơ trơn hay u thần kinh. Về tạo mô học, trên thế giới cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về GIST. Cho đến nay mặc dù vẫn còn các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, nhưng giả thuyết được nhiều nhà khoa học chấp nhận nhất là GIST xuất nguồn từ tế bào kẽ Cajal [3], [4], [8]. U trung mô dạ dày-ruột (lành tính hoặc ác tính) được chia thành khoảng 10 nhóm, tựu chung gồm 2 nhóm chính. Một nhóm chiếm số ít (khoảng 1/4, tuỳ vị trí khác nhau của ông tiêu hoá), có hình ảnh mô bệnh học và tiêu chuẩn chẩn đoán giông u mô mềm ở các cơ quan khác như: u mỡ, u cơ trơn, u tế bào Schwann, u mạch máu… Nhóm khác chiếm phần lớn u trung mô (khoảng 3/4) là một nhóm không đồng nhất, gọi là u mô đệm ông tiêu hoá hay u mô đệm dạ dày – ruột (GIST: gastrointestinal stromal tumors) [1-4], [8-9].
Cho đến trước năm 2001, việc điều trị các u trung mô ông tiêu hóa nói chung và GIST nói riêng là phẫu thuật cắt bỏ, có thể kèm hóa trị hay xạ trị bổ sung. Tuy nhiên kết quả vẫn còn hạn chế, tỉ lệ tái phát cao. Gần đây, với việc sử dụng thuốc điều trị ức chế đặc hiệu c-kit cho thấy có hiệu quả tốt đối với GIST xâm nhập và kể cả các trường hợp đã có di căn [1], [4], [8].
Ở Việt Nam, khái niệm GIST vẫn còn khá mới mẻ. Việc chẩn đoán GIST cho đến nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn và chưa thông nhất về tiêu chuẩn mô bệnh học cũng như thiếu kỹ thuật hoá mô miễn dịch (HMMD) để chẩn đoán xác định. Với vai trò của chẩn đoán giải phẫu bệnh đặc biệt là HMMD trong việc khẳng định bản chất tế bào u và bảo đảm điều trị hợp lý cho bệnh nhân bằng liệu pháp điều trị đích c-kit, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích:
– Chẩn đoán u mô đệm và một số u trung mô khác của dạ dày-ruột sau nhuộm hóa mô miễn dịch
2.    ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
2.1.    Đối tượng nghiên cứu
63 trường hợp được chẩn đoán mô bệnh học sau mổ là u trung mô dạ dày-ruột bao gồm u tế bào hình thoi hoặc dạng biểu mô nghi ngờ u mô đệm dạ dày-ruột, u cơ trơn lành và ác tính, u tế bào bao Schwann và các u tế bào hình thoi, dạng biểu mô khác tại khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Việt Đức và Bệnh viện K, Hà Nội từ tháng 1 năm 2008 đến tháng 7 năm 2009.
Các trường hợp được đưa vào nghiên cứu có đủ tiêu bản mô bệnh học, phiếu trả lời kết quả, khối nến lưu trữ.
2.2.    Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả
–     Các tiêu bản mô bệnh học nhuộm H.E được đọc và định hướng chẩn đoán, sau đó chọn bệnh phẩm được đúc trong khối nến và tiến hành cắt mỗi bệnh phẩm 07 tiêu bản (01 tiêu bản nhuộm H.E thường quy, 06 tiêu bản đặc biệt để nhuộm HMMD), thực hiện tại khoa Giải phẫu bệnh – Bệnh viện Việt Đức và Bệnh viện K Hà Nội.
–    Phân loại nguồn gốc mô u dựa theo kết quả nhuộm HMMD với 6 dấu ấn CD117, CD34, Desmin, SMA, S-100 và CK như sau:

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment