Hoá- xạ đổng thời điểu trị ung thư vòm mũi họng tái phát tại chỗ- tại vùng tại khoa ung bướu bệnh viện trung ương Huế

Hoá- xạ đổng thời điểu trị ung thư vòm mũi họng tái phát tại chỗ- tại vùng tại khoa ung bướu bệnh viện trung ương Huế

Nghiên cứu tiến cứu, áp dụng hoá-xạ đổng thời điều trị cho 25 bênh nhân ung thư vòm mũi họng tái phát tại chỗ-tại vùng, tại Khoa Ung bướu Bênh viên Trung ương Huế từ 01/2/2006 đến 31/7/2007. Phần lớn bênh nhân là nam giới (80%), tuổi trung bình 53, giai đoạn bênh tiên phát muộn (88%). Thời gian tái phát trung bình 18 tháng, 80% tái phát tại vòm, 60% tái phát tại hạch cổ. 75% các bênh nhân có u vòm tái phát xâm lấn rộng. Phác đổ điều trị: xạ trị từ ngoài vào u và hạch, liều 60¬70 Gy trong 6-7 tuần. Hoá trị đổng thời (Cisplatin 40mg/m2/ngày (tuần) * 6 tuần).
Kết quả: Tỷ lê đáp ứng đạt 84%, trong đó đáp ứng hoàn toàn đạt 60%. Thời gian theo dõi trung bình 14 tháng. Sông thêm không tiến triển bênh đạt 36,2%. Phân tích một số yếu tố tiên lượng cho thấy, những bênh nhân có thời gian tái phát < 2 năm, tái phát chỉ tại vòm hoặc chỉ tại hạch cổ, và đáp ứng hoàn toàn với điều trị thì có tỷ lê sông thêm không tiến triển bênh cao hơn. Độc tính và tác dụng phụ của điều trị thường ở mức độ I, II. Một số độc tính độ III gặp phải là viêm loét họng miệng (20%), xạm da (12%) và nôn mửa (12%).
Kết luận: Hoá-xạ đổng thời điều trị ung thư vòm mũi họng tái phát hứa hẹn đem lại kết quả tốt, làm tăng kiểm soát tại chỗ-tại vùng, cải thiên sông thêm không tiến triển bênh. Độc tính có thể chấp nhận được.
I.    ĐẶT VẤN ĐỂ
Ung thư vòm mũi họng là một trong những loại ung thư đầu- cổ thưòng gặp ở các nước Đông Á, trong đó có Viêt Nam. Vị trí u nguyên phát nằm sâu và không có một biên pháp sàng lọc hiêu quả, chính là nguyên nhân của phần lớn bênh nhân nhập viên khi bênh đã ở giai đoạn muộn. Mặc dù đây là loại bênh đáp ứng tốt với điều trị (chủ yếu là xạ trị), tỷ lê lui bênh cao nhưng tình trạng tái phát tại chỗ-tại vùng (chiếm 30% các bênh nhân) đang là một thách thức đáng kể cho các nhà lâm sàng, đặc biêt với những bênh nhân ở giai đoạn tiến triển (giai đoạn III, IV) [2,5].
Ung thư vòm mũi họng tái phát có tiên lượng rất kém nếu không được điều trị lại [4,7]. Viêc lập kế hoạch điều trị phụ thuộc vào một số yếu tố sau: thời gian tái phát, mức độ xâm lấn, lan rộng của tổn thương, số lần tái phát và thể trạng bênh nhân. Xạ trị lần 2, chủ yếu áp dụng cho bênh nhân tái phát lần đầu tiên, thời gian tái phát sau 1 năm, và tổn thương còn khu trú. Kết quả điều trị còn hạn chế. Phẫu thuật ít được ưa chuộng trong ung thư vòm. Cắt vòm (nasopharyngectomy) là một loại phẫu thuật rất xâm lấn, nhiều biến chứng, thường áp dụng cho những bênh nhân tái phát khu trú đã thất bại với xạ trị lần 2. Phẫu thuật lấy hạch còn sót sau xạ trị được áp dụng nhiều hơn. Hoá trị nói chung chỉ mang tính chất điều trị triêu chứng cho những bênh nhân đã loại trừ khả năng xạ trị hay phẫu thuật [1,3]. Phác đổ hoá-xạ đổng thời rất ít được xem xét đối với ung thư vòm mũi họng tái phát, mặc dù trong hơn một thập niên trở lại đây nó là phác đổ được áp dụng ngày càng phổ biến đối với những ung thư đầu-cổ nói chung và ung thư vòm mũi họng tiên phát nói riêng. Ở Viêt Nam hoàn toàn chưa có một công trình nghiên cứu nào về vấn đề này.
Mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi là áp dụng phác đổ hoá-xạ đổng thời điều trị ung thư vòm mũi họng tái phát tại chỗ-tại vùng, theo dõi độc tính và kết quả bước đầu.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment