Hoạt động thể lực và mối liên quan với cấc yếu tố nguy cơ tim mạch phối hợp ở trẻ vị thành niên thành phố Hồ Chí Minh
Yếu tố nguy cơ tim mạch phối hợp (gọi tắt là YTNCTM) đang trở thành một vấn đề thời sự của thời đại với tỉ lệ mắc ngày càng tăng. Tại Mỹ, tỉ lệ này gần như tăng gấp đôi từ 4,7% lên 7,6% trong mười năm qua [14]. Tại Phần Lan và Thụy Điển, theo nghiên cứu của Isomaa trên người từ 35 đến 70 tuổi [12], người có YTNCTM sẽ có nguy cơ tử vong cao gấp 2 lần và nguy cơ mắc các bệnh đái tháo đường, tim mạch cao gấp 5 lần so với người bình thường. Tình trạng mắc YTNCTM cũng phổ biến ở trẻ em với tỉ lệ ngày càng tăng dần và cũng gây ra tình trạng mắc các bệnh lý tim mạch về sau [3, 7], ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, làm tăng tử vong và biến chứng ở người lớn. Tại nước ta, theo nghiên cứu cắt ngang mới đây ở thành phố Hồ Chí Minh, tỉ lệ người trưởng thành có YTNCTM khá cao [6] nhưng lại thiếu các nghiên cứu về YTNCTM ở trẻ em độ tuổi vị thành niên.
Để phòng tránh YTNCTM, CDC [25], WHO [23], AHA [17] khuyến cáo tăng cường hoạt động thể lực vì các nghiên cứu cho thấy có mối liên quan nghịch giữa hoạt động thể lực với các YTNCTM phối hợp. Ở nhóm tuổi vị thành niên, nghiên cứu đoàn hệ của Lars Bo Andersen và cộng sự chỉ ra rằng khi trẻ hoạt động thể lực càng nhiều thì nguy cơ mắc YTNCTM phối hợp càng giảm [2]. Tương tự, nghiên cứu của Pan Y. và cộng sự cho kết quả trẻ có xu hướng mắc YTNCTM nhiều hơn khi hoạt động thể lực giảm [20]. Từ các kết quả nghiên cứu, nhiều nước trên thế giới đã đưa ra các khuyến cáo về thời gian và mức độ hoạt động thể lực khác nhau cho trẻ ở lứa tuổi này. Ở Việt Nam, theo một nghiên cứu gần đây của tác giả Nguyễn Hoàng Hạnh Đoan Trang và cộng sự, có 24,3% trẻ vị thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh thiếu hoạt động thể lực, và hoạt động thể lực có liên quan nghịch với việc xem tivi, chơi game trên mạng và thời gian học thêm nhiều [18]. Vậy thực sự các em dành ra bao nhiêu thời gian để hoạt động thể lực mỗi ngày và khoảng thời gian đó có đủ giúp các em giảm được tỉ lệ mắc YTNCTM không? Cho tới nay vẫn chưa có nghiên cứu nào ở nước ta tìm hiểu vấn đề này. Ngoài ra, hiện tại cũng chưa có nghiên cứu khảo sát hoạt động thể lực ở trẻ em vị thành niên sử dụng phương pháp khách quan (máy gia tốc) như tại các nước phát triển [27].
Vì các lý do trên, mục tiêu của chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu này là khảo sát tình trạng hoạt động thể lực và tình hình mắc YTNCTM ở trẻ vị thành niên thành phố Hồ Chí Minh, qua đó, tìm ra mối liên quan giữa YTNCTM và hoạt động thể lực. Chúng tôi cũng hy vọng, qua nghiên cứu này, có thể đưa ra khuyến cáo về thời gian hoạt động thể lực thích hợp cho trẻ em vị thành niên thành phố HCM.
2/ Phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên các học sinh từ 11 đến 16 tuổi thuộc 18 trường cấp 2 tại thành phố Hồ Chí Minh từ 9/2007 đến 9/2008.
Cỡ mẫu: được tính nhằm xác định tỷ lệ trẻ có các yếu tố nguy cơ tim mạch phối hợp, có tính đến hiệu ứng của thiết kế chọn mẫu cụm và ước tính tỷ lệ từ chối tham gia nghiên cứu khoảng 20%. Cỡ mẫu cần thiết cho nghiên cứu là 607 học sinh
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu cụm nhiều giai đoạn theo PPS (Probability Proportionate to Size).
Thu thập số liệu: Chiều cao được đo bằng thước Microtoise, cân nặng được đo bằng cân điện tử (Tanita). Máy đo huyết áp điện tử (Omron) được sử dụng để đo huyết áp. Mẫu máu được lấy vào buổi sáng sau khi các em nhịn ăn >8 giờ, do các kỹ thuật viên của DIAG center thực hiện và phân tích trên máy tự động Hitachi 917.
Hoạt động thể lực:
Các số liệu về hoạt động thể lực được thu thập bằng máy đo gia tốc MTI Actigraph sau khi trẻ đeo ít nhất 10 giờ/ ngày và ít nhất 4 ngày/ tuần. Sau đó, dữ liệu trong máy đo gia tốc được
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích