Hội chứng suy giảm miễn dịch nặng thể kết hợp: nhân 4 trường hợp được phát hiện tại bệnh viện nhi Trung Ương
Suy giảm miễn dịch nặng thể kết hợp (SGMDKH) là một nhóm bệnh di truyền hiếm gặp với tỷ lệ mắc 1/ 500.000. Bệnh đặc trưng bởi sự suy giảm hoặc không có chức năng của tế bào T & B – lympho [1; 2]. Trẻ bị bệnh SGMDKH thường nhập viện vì nhiễm trùng nặng, chậm lên cân, ỉa chảy kéo dài [3; 4]. Nếu không được phát hiện và điều trị ghép tủy sớm thì trẻ mắc SGMDKH sẽ tử vong trong vòng 1 -2 tuổi. Chính vì thế, tại các nước phát triển chẩn đoán hội chứng suy giảm miễn dịch (MD) là vấn đề cấp cứu Nhi khoa [5]. Ở Việt Nam việc chẩn đoán nhóm bệnh suy giảm MD bẩm sinh thường gặp nhiều khó khăn do điều kiện xét nghiệm chuyên sâu về miễn dịch cũng như di truyền phân tử còn hạn chế. Đây là lần đầu tiên, tại bệnh viên Nhi Trung ương phát hiện chẩn đoán được 4 trường hợp bị hội chứng suy giảm miễn dịch thể kết hợp nặng. Mục tiêu:
Thông báo 4 trường hợp bệnh hiếm gặp với mục đích tìm hiểu dấu hiệu lâm sàng, huyết học và miễn dịch có thể nghi ngờ trẻ bị mắc hội chứng suy giảm miễn dịch thể kết hợp nặng.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hồi cứu mô tả bệnh.
1. Đối tượng nghiên cứu
4 bệnh nhân suy giảm miễn dịch thể kết hợp nặng, điều trị tại khoa hô hấp bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 2 đến tháng 6/ 2008.
2. Tiêu chẩn chẩn đoán bệnh
Dựa theo tiêu chuẩn của Hội miễn dịch quốc tế, Châu Âu và Mỹ [10; 11].
Suy giảm miễn dịch thể kết hợp nặng, liên quan đến giới tính (X – linked Severe Combined Immunodeficiency): Khả năng có thể xảy ra khi một trẻ trai có CD3+ T cells < 10%, CD16/56+ NK cells < 2% và CD19+ B cells > 75%. Hàm lượng IgG và IgA < 2 SD, kèm theo những đặc điểm lâm sàng sau: không lên cân trước 1 tuổi; ỉa chảy, viêm đường hô hấp hoặc nhiễm nấm dai dẳng hoặc tái diễn.
Suy giảm miễn dịch thể kết hợp nặng (Severe Combined Immunodeficiency ): trẻ trai hoặc gái dưới 2 tuổi có CD3+ < 20% T cells, số lượng lymphocyte tuyệt đối < 3000/ µl, xuất hiện các dấu hiệu chậm lớn, ỉa chảy, viêm đường hô hấp dai dẳng hoặc có thể nhiễm nấm trong khoảng 2 đến 7 tháng tuổi.
3. Tiêu chuẩn loại trừ
độ I, phổi nhiều ran ẩm và ran rít hai bên, SpO2 94%. Các cơ quan khác không có gì đặc biệt, gan, lách, hạch ngoại vi không to.
Xét nghiệm: công thức máu (CTM) số lượng 9 –1
Các bệnh suy giảm miễn dịch mắc phải bạch cầu 4,4 – 4,8; 10 x L , đặc biệt số lượng
(HIV, ung thư, sau chiếu xạ hoặc dùng các thuốc ức chế miễn dịch, các bệnh gan thận mãn tính v.v…)
4. Cách tiến hành
Các bệnh nhân được khai thác kỹ về tiền sử gia đình, tiền sử sản khoa, bệnh sử, thăm khám lâm sàng, đánh giá mức độ suy dinh dưỡng, xét nghiệm cơ bản (CTM, XQ lồng ngực, sinh hóa, vi sinh, PCR, nội soi khí phế quản v.v…)
Xét nghiệm miễn dịch: đo hàm lượng các IgG, IgA, IgM trong huyết thanh bằng phương pháp ELISA tại khoa sinh hóa bệnh viện Nhi Trung ương
Xét nghiệm tế bào: đếm số lượng bạch cầu lymphocyte (CD3, CD4, CD8) bằng phương pháp dòng chảy (flow cytometry) tại khoa huyết học viện nhi TW.
Kết quả xét nghiệm nghiên cứu được so sánh và đánh giá theo chỉ số trung bình của trẻ em từng lứa tuổi [9].
II. KẾT QUẢ
1. Trường hợp thứ 1
Trẻ trai 6 tháng tuổi, mã số bệnh án 447374, vào viện 13/03/2008, lý do viêm phế quản kéo dài từ 4,5th tuổi.
Trẻ là con đầu, đẻ thường, đủ tháng, cân nặng lúc sinh là 3,5 kg, bú mẹ hoàn toàn, đã được tiêm phòng BCG và hai mũi của vacxin bạch hầu, uốn ván ho gà, bại liệt.
Lâm sàng: trẻ tỉnh, cân nặng 6,5 kg ( < 1SD), phát triển tinh thần vận động bình thường, amydal không to, sẹo BCG không có, suy hô hấp
tuyệt đối của lymphocyte 537 – 1131 tế bào/µl.
XQ lồng ngực không thấy bóng tuyến hung, hình ảnh viêm phế quản phổi 2 bên. Nội soi khí phế quản có hình ảnh viêm khí phế quản mãn tính. Kết quả cấy dịch rửa phế quản và cấy nội khí quản 2 lần âm tính.
Trước bệnh nhân nặng, diễn biến dai dẳng, không tìm ra nguyên nhân gây viêm phổi, số lượng bạch cầu lympho giảm, hội chứng suy giảm MD bẩm sinh đã được định hướng và làm các xét nghiệm chức năng MD cho bệnh nhân. Kết quả xét nghiệm: CD3 – 17%, CD4 – 9%, CD8 – 9%; hàm lượng IgG, IgM, IgA rất thấp (bảng 1).
Sau khi đánh giá kết qủa xét nghiệm và lâm sàng, trẻ được chẩn đoán SGMDKH. Chúng tôi đã áp dụng điều trị thay thế truyền immu- noglubuline (IVIG) cho bệnh nhân nhưng tình trạng bệnh nhân quá nặng, không đáp ứng điều trị kháng sinh, kháng nấm, chống suy hô hấp. Sau 13 ngày điều trị, bệnh nhân tử vong.
2. Trường hợp thứ 2
Trẻ trai 5 tháng tuổi, mã số bệnh án 435862, nhập viện 18/02/2008 vì viêm phổi tái phát 4 lần. Bệnh từ 40 ngày tuổi, điều trị nhiều đợt với nhiều loại kháng sinh tĩnh mạch.
Trẻ là con đầu, đẻ thường, đủ tháng, cân nặng lúc sinh là 3kg, bú mẹ hoàn toàn. Đã được tiêm phòng BCG và mũi thứ nhất của bạch hầu, uốn ván ho gà, bại liệt.Lâm sàng: trẻ tỉnh, cân nặng 4 kg (< 3SD), tinh thần vận động bình thường, amydal nhỏ, sẹo BCG không thấy, suy hô hấp độ II, phổi rale ẩm nhỏ hạt hai bên, SpO2 90 – 80%; gan lách hạch ngoại vi không to.
Xét nghiệm: CTM số lượng bạch cầu thấp 2,5
– 5,1 x 109 x L–1, lymphocyte tuyệt đối 14 – 15 tế bào/ µl . XQ lồng ngực: hình ảnh viêm phổi 2 bên. Nội soi khí phế quản có hình ảnh viêm mủ nhầy, tắc nghẽn làm xẹp thùy dưới phổi phải. Kết quả cấy dịch rửa phế quản âm tính, cấy nội khí quản có P.aeruginosa. Bệnh nhân được điều trị kháng sinh theo kháng sinh đồ, nhưng diễn biếm lâm sàng ngày càng nặng. Các xét nghiệm MD cho thấy CD3 chiếm 1%, CD4 – 0%, CD8 – 0% và các globulines miễn dịch hầu như không có (bảng 1).
Tình trạng bệnh nhân không đáp ứng điều trị kháng sinh, kháng nấm, truyền IVIG, sau 16 ngày điều trị, bệnh nhân tử vong.
3. Trường hợp thứ 3
Trẻ trai 3 tháng tuổi, mã số bệnh án 440228, vào viện 21/04/2008, lý do: nấm miệng kéo dài từ 15 ngày tuổi. Một tháng nay trẻ ho, sốt, khó thở, được điều trị nhiều kháng sinh tĩnh mạch và uống nhưng không đỡ.
Trẻ là con thứ 4, đẻ thường, đủ tháng, cân nặng lúc sinh 3kg, bú mẹ hoàn toàn. Hai chị gái khỏe mạnh, anh trai chết lúc 3 tháng tuổi vì nấm phổi. Trẻ chưa được tiêm phòng.
Lâm sàng: tỉnh, mệt, cân nặng 5,5 kg (- 1SD), phát triển tinh thần vận động bình thường, amydal không có, suy hô hấp độ II, phổi nhiều ran ẩm hai bên, SpO2 88%. Các cơ quan khác không có gì đặc biệt, gan lách hạch ngoại vi không to.
Xét nghiệm: CTM số lượng bạch cầu 4,2 – 4,5 x 109 x L–1 lymphocyte 75 – 125 tế bào/ µl . XQ lồng ngực: hình ảnh viêm phế quản phổi 2 bên. Nội soi khí phế quản: nấm bám đầy vùng hạ họng, nắp thanh môn và hai dây thanh, cấy dịch rửa phế quản mọc Candida albicans, cấy dịch nội khí quản có P. Aeruginossa. Hội chứng suy giảm MD bẩm sinh được nghi ngờ ở bệnh
nhân này vì tình trạng bệnh nặng, SDD, diễn biến dai dẳng từ 15 ngày tuổi, nhiễm trùng cơ hội candida albicans, số lượng bạch cầu lympho giảm, tiền sử gia đình có anh trai chết sớm vì nấm phổi. Kết quả xét nghiệm MD: CD3+ chiếm 2%, CD4 – 1%, CD8 – 1%, và IgG và IgA thấp (bảng 1).
Trẻ được điều trị kháng sinh, kháng nấm, truyền IVIG, chống suy hô hấp, chăm sóc, dinh dưỡng nhưng tình trạng trẻ không cải thiện, xuất hiện tràn khí trung thất. Bệnh nhân tử vong sau 16 ngày điều trị.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích