Kết quả 5 năm triển khai Sử dụng thuốc tiêm tránh thai tại Việt Nam

Kết quả 5 năm triển khai Sử dụng thuốc tiêm tránh thai tại Việt Nam

Nghiên cứu kết quả 5 năm (1997-2001) triển khai thực hiên tiêm DMPA tại Việt Nam đã được Bô Y tế, Uỷ ban quốc gia Dân số và Kế’ hoạch hoá gia đình tiến hành từ tháng 10/2001 đến 5/2002 tại ba tỉnh: Thanh Hoá, Yên Bái và Đồng Tháp trên 871 phụ nữ đã và đang sử dụng DMPA, 40 người cung cấp kỹ thuật dịch vụ và 90 cán bô quản lý chương trình. Sử dụng phương pháp nghiên cứu hồi cứu bằng phỏng vấn trực tiếp các đối tượng qua bảng hỏi đã được thiết kế. Kết quả cho thấy:
DMPA đã được chấp nhận là môt BPTT mới, sử dụng nhằm dãn sinh, tỷ lệ sử dụng tăng dần từ
0,    67% năm 1997 lên 3,32% trong sô’ phụ nữ 15-49 sử dụng các BPTT. sự chấp nhận DMPA tăng ở nhóm phụ nữ trẻ, ít con.
Trạm y tế xã/phường là địa điểm tốt để tiêm DMPA, cần mở rông tiêm thuốc tại đây trong phạm vi toàn quốc, 96,5% khách hàng tiêm thuốc tại trạm y tế xã và hài lòng với nó.
Các yếu tố’ tác đông để phụ nữ tiêm DMPA chủ yếu do dễ và thuận lợi khi sử dụng: 62%, hiệu quả tránh thai cao: 58%, không ảnh hưởng đến sức khoẻ 55% và không ảnh hưởng đến quan hệ tình dục là 39%. Tuy nhiên thuốc tiêm DMPA có tỷ lệ bỏ cuôc rất cao, dao đông từ 10-70% tuỳ theo từng tỉnh và thời gian. Nguyên nhân bỏ cuôc hầu hết do gặp tác dụng phụ: 80,2% trong đó hai nguyên nhân chính là vô kinh và rối loạn kinh nguyệt: 33,2% và 43,4%.
Để tiếp tục duy trì tỷ lệ sử dụng, giảm tỷ lệ bỏ cuôc cần tăng cường hoạt đông đào tạo, cung cấp thông tin, tư vấn, chú ý thông tin về tác dụng phụ như vô kinh, rối loạn kinh nguyệt và nâng cao chất lưọng dịch vụ.

I.    ĐẶT VẤN ĐỀ
Để đa dạng hoá các biên pháp tránh thai (BPTT), giúp cho người sử dụng có thêm cơ hôi lựa chọn những BPTT phù hợp, dựa trên những bài học kinh nghiêm qua nhiều nghiên cứu đánh giá về thuốc tiêm tránh thai DMPA (gọi tắt là DMPA) ở trong và ngoài nước, từ năm 1997, DMPA đã được triển khai thực hiên đến tận tuyến y tế’ cấp cơ sở tại nhiều tỉnh/thành phố [1].
Mạc dù đến năm 2001, DMPA đã được phép phổ cập sử dụng trong phạm vi cả nước nhưng cũng chỉ có 52/61 tỉnh/thành phố’ (chiếm 85%), 225/624 huyên (tỷ lê 36.%) và 2.797/10.379 xã (26%) thực hiên, số phụ nữ tiêm thuốc tránh thai DMPA là 60.714 người. Theo báo cáo về tình hình sử dụng DMPA tại 22 tỉnh/TP từ năm 1997 đến hết năm 2000 [6,7] cho thấy tỷ lê bỏ cuôc còn cao. Nếu so sánh giữa tổng số phụ nữ tiêm thuốc tích luỹ từ năm 1997-2000 với tổng số phụ nữ bỏ cuôc trong những năm đó ở môt số tỉnh thì thấy: Đổng Tháp cứ 1,1 người còn sử dụng thì có 1 người bỏ cuôc. Ớ Yên Bái tỷ lê tương ứng là 1,4 so với 1 và Thanh Hoá là 2,2 và 1.
Sau 5 năm thực hiên vần còn môt số bất cập trong hê thống cung cấp dịch vụ, vì vậy tiến hành đánh giá kết quả 5 năm triển khai sử dụng thuốc tiêm tại môt số tỉnh thành phố (1997¬2001) là môt việc cẩn thiết, có tính thời sự để tiếp tục chỉ đạo đưa DMPA đạt hiêu quả cao trong Chương trình DS & KHHGĐ ở Viêt Nam.
Mục tiêu khảo sát đánh giá
1.    Xác định tỷ lê sử dụng thuốc tiêm tránh thai trong số phụ nữ 15-49 tuổi có chổng đang sử dụng các BPTT.
2.    Tìm hiểu môt số yếu tố tác đông và ảnh hưởng chính liên qua đến sự chấp nhận và bỏ cuôc của các đối tượng nghiên cứu, từ đó đưa ra môt số giải pháp can thiêp.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment