Kết quả bước đầu điều trị viêm loét giác mạc nặng bằng phẫu thuật ghép giác mạc

Kết quả bước đầu điều trị viêm loét giác mạc nặng bằng phẫu thuật ghép giác mạc

Viêm loét giác mạc (VLGM) là  một bệnh rất thường gặp trong bệnh lý giác mạc. Đa số các trường hợp là bệnh nhiễm khuẩn, nguyên nhân bệnh cụ thể là vi khuẩn, virut, nấm, amip. Tỷ lệ BN VLGM chiếm 19,5% trong tổng số bệnh nhân (BN) mắt được điều trị nội trú [1]. VLGM dọa thủng,  thủng  thực  sự   có  thể  lên tới  16,8% [2]. Việc bảo tồn sự  toàn vẹn của nhãn cầu và thị lực trong những trường hợp này là rất khó khăn, 6,7% số mắt phải bỏ nhãn cầu [1].
Để cứu vãn các trường hợp VLGM nặng, không phải bỏ nhãn cầu, bảo tồn thị lực, cần phải lấy hết phần giác mạc bị tổn thương và thay thế bằng mô giác mạc lành. Ghép giác mạc (GGM) là phương pháp điều trị duy nhất có thể đáp ứng với yêu cầu đó. Ở nước ta, phẫu thuật ghép giác mạc điều trị viêm loét giác mạc đó được thực hiện từ lâu. Tuy nhiên, do giác mạc không có thường xuyên, nguồn chủ yếu là từ các mắt chấn thương nên chất lượng mảnh ghép không đồng đều, kết quả phẫu thuật cũng hạn chế và chưa được đánh giá một cách có hệ thống. Hiện nay, nhờ sự giúp đỡ của các tổ chức Quốc tế, nguồn giác mạc và chất lượng giác mạc đó  đồng đều và  thường xuyên hơn. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu:
Đánh giá kết quả điều trị VLGM nặng bằng phẫu thuật GGM.
I.    ĐỐI    TƯỢNG    VÀ    PHƯƠNG    PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện tại khoa Kết – Giác mạc, bệnh viện Mắt Trung Ương từ tháng 6/2004 đến tháng 9/2005 trên 38 BN với 38 mắt VLGM nặng, là  những mắt đó được điều trị tích cực bằng nội khoa nhưng tình trạng viêm loét không giảm, ổ loét áp xe rộng > 5mm, hoặc áp xe toàn bộ chiều dày giác mạc hoặc VLGM có thủng giác mạc, có đường kính lỗ thủng lớn hơn 2mm, hoặc thủng nhỏ hơn 2mm nhưng giác mạc xung quanh vẫn còn thẩm lậu hoặc áp xe nặng. BN không có các bệnh lý toàn thân nặng, đồng ý GGM và có thể đến khám và điều trị sau ghép theo hẹn.
Kỹ thuật mổ: BN được ghép GM xuyên, dùng mảnh được lấy từ mắt của tử thi theo tiêu chuẩn Hiệp hội Ngân hàng Mắt Mỹ [3]. Khi ghép, toàn bộ phần GM tổn thương được lấy hết và thay thế hoàn toàn bằng giác mạc lành.
Điều trị hậu phẫu: Tiếp tục dùng các thuốc điều trị trước mổ: Kháng sinh, thuốc chống nấm, chống virut theo căn nguyên gây loét; các thuốc dinh dưỡng giác mạc, giúp liền mảnh ghép. Corticoit được cân nhắc để dùng sớm, ngay sau khi dấu hiệu nhiễm khuẩn được khống chế. Thuốc được dùng thăm dò liều 1 giọt/ngày, sau đó tăng lên 4 – 6 giọt/ ngà
Sau khi ghép, ở hầu hết các mắt, tình trạng nhiễm khuẩn đó được khống chế. Có 3 mắt có nhiễm khuẩn nặng, tác nhân gây bệnh lan sâu vào nội nhãn. Sau khi điều trị nội khoa tích cực, hai mắt mất chức năng thị giác nhưng vẫn  bảo tồn được nhãn cầu, 1 mắt phải múc nội nhãn. Kết quả  về mảnh ghép được thể hiện ở bảng dưới đây.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị viêm loét giác mạc nặng bằng phẫu thuật ghép giác mạc. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trên 38 mắt viêm loét giác mạc nặng được điều trị bằng phẫu thuật ghép giác mạc. Sau mổ bệnh nhân vẫn được tiếp tục điều trị bằng các kháng sinh đặc hiệu, dinh dưỡng giác mạc, chống viêm và chống phản ứng miễn dịch. Kết quả: Phẫu thuật, các biến chứng trong, sau mổ 3 tháng được ghi nhận và phân tích. Tỷ lệ bảo tồn nhãn cầu, loại trừ được nhiễm trùng là 97,37% (37/38 mắt). Thị lực sau mổ được bảo tồn hoặc cải thiện ở 35/38 mắt (92,11%). Diễn biến sau mổ phức tạp, biến chứng sau mổ chủ yếu là tăng nhãn áp, đục thể thủy tinh, nhiễm khuẩn tái phát. Phản ứng miễn dịch thải ghép gặp trong 8/38 (21,05%) mắt. Kết luận: Ghép giác mạc là giải pháp hữu hiệu đề loại trừ nhiễm khuẩn, bảo tồn giải phẫu và chức năng cho những mắt viêm loét giác mạc nặng. Bệnh nhân cần được theo dõi thường xuyên để phát hiện và điều trị kịp thời các biến chứng.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment