Kết quả bước đầu nhận dạng các vết thương phần mềm phức tạp hàm mặt theo MOXAIC
Kết quả bước đầu nhận dạng các vết thương phần mềm phức tạp hàm mặt theo MOXAIC
Nguyễn Hồng Hà,Nguyễn Bắc Hùng
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Hiện nay trong y văn đã có một vài phân loại cho gãy xương hàm mặt nhưng phân loại về vết thương phần mềm phức tạp (VTPMPT) hàm mặt thì hầu như còn rất ít. Chúng tôi trình bày kết quả bước đầu nhận dạng các loại VTPMPT hàm mặt theo MOXAIC.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang trên 118 bệnh nhân có VTPMPT hàm mặt được điều trị cấp cứu tại Bệnh viện Việt Đức từ 11/2004 đến 12/2008. Trong đó VTPMPT hàm mặt là: vết thương (VT) vừa có tổn thương phần mềm lớn (dài ?10 cm) vừa có tổn thươngcác thành phần quan trọng ở sâu như TK VII, ống, tuyến nước bọt hoặc vỡ xương sọ mặt, nhãn cầu.
Kết quả bàn luận: Dựa vào hình dạng, hướng, số lượng vùng giải phẫu trên mặt mà VT đi qua, tính chất nguy hiểm, cấp cứu của từng VT, hướng điều trị, kết quả điều trị và tiên lượng, có thể xếp các VTPMPT vào 5 dạng sau đây:
+ VT chu vi, dạng O: VT không quá nặng, kết quả tốt 83,4%.
+ VT chéo dọc trán mắt, dạng X: điều trị cần phối hợp nhiều chuyên khoa, nhưng kết quả vẫn không cao, chỉ 55,9% đạt tốt.
+ VT ngang má mũi, môi, má, dạng A: cấp cứu đường thở đặc biệt quan trọng, trong điều trị không cần phối hợp chuyên khoa, kết quả tốt 81,2%.
+ VT trực tiếp, dạng I: chú ý cấp cứu đường thở, chảy máu, kết quả điều trị thường không cao, chỉ có 57,1% đạt tốt.
+ VT do bịChém, dạng C: chú ý sơ cứu, khâu cầm máu, băng ép. Điều trị sớm, triệt để, đúng thì kết quả tốt đạt 87,5%.
Cách nhận dạng VT phần Mềm phức tạp trên đây có thể đặt tên là MOXAIC.
Kết luận: Đây là một cách nhận dạng có tính ứng dụng cao, dễ sử dụng, cho phép chẩn đoán, đánh giá tiên lượng được các VTPMPT. Tuy nhiên cần có sự đóng góp ý kiến, sửa chữa của các chuyên gia đầu ngành và nhiều nghiên cứu với số lượng BN lớn hơn để phát triển nhận dạng này thành một phân loại các vết thương phần mềm phức tạp hàm mặt
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Hồng Hà, Nguyễn Bắc Hùng (2009), “ Kết quả điều trị sớm các tổn thương thần kinh VII và ống tuyến mang tai bằng kỹ thuật vi phẫu”, Y học thực hành, 9(2): tr. 16-20.
2. Nguyễn Văn Long (2000),“Nhận xét hình ảnh lâm sàng phương pháp điều trị chấn thương phần mềm vùng hàm mặt”, Luận văn Thạc sỹY học, Đại học Y khoa Hà Nội.
3. Nguyễn Hữu Tú (2003), “Bảng điểm Glasgow, bảng điểm chấn thương, bảng điểm chấn thương sửa đổi trong phân loại và tiên lượng chấn thương sọ não đơn thuần và chấn thương sọ não có tổn thương phối hợp”,Ngoại khoa, 6(53): tr. 7-11.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất