Kết quả can thiệp phẫu thuật thì đầu các tai biến tiết niệu sau mổ sản phụ khoa
Tai biến tiết niệu (TBTN) do phẫu thuật sản phụ khoa là thường gặp và chiếm khoảng 1 – 2,5%. Đánh giá kết quả phẫu thuật sớm của 106 bệnh nhân TBTN được điều trị lằn đầu tại khoa Tiết niệu bệnh viện Việt Đức từ 4/2005 đến 9/2010. 106 bệnh nhân nữ tuổi từ 21 đến 65 (trung bình 42,52 ± 10,47). Kết quả cho thấy các hình thái TBTN với tổn thương đơn thuần chiếm 91,5%, rò bàng quang – âm đạo gặp nhiều nhất chiếm 46,2% và hẹp niệu quản gặp 26,4%, rò niệu quản – âm đạo gặp 13,1%. Tổn thương niệu quản 2 bên và phối hợp rò niệu quản, bang quang – âm đạo gặp 8,5%. TBTN khó được chẩn đoán trong mổ, chỉ phát hiện được 1 trong số 4 viêm phúc mạc do tổn thương bang quang 63,8% chẩn đoán ở giai đoạn muộn trên 1 tháng và trên 1 năm là 16%. Phẫu thuật đóng rò bang quang – âm đạo bằng đường qua bàng quang chiếm 87,7% và phẫu thuật cắm lại niệu quản – bàng quang theo phương pháp Lich – Grégoir chiếm 90,6%. Kết quả sớm sau mổ đạt tốt trong 96,23%, không bệnh nhân nào phải mổ lại trong thời kỳ hậu phẫu. 73,6% bệnh nhân theo dõi xa sau mổ với thời gian trung bình: 20,22 ± 16,46 tháng (1 – 60 tháng) đạt kết quả tốt 89,8%, tỷ lệ mổ lại là 6,4% gặp ở 4 bệnh nhân rò bang quang – âm đạo và 1 hẹp niệu quản 2 bên được đặt JJ 2 bên đơn thuần. Chẩn đoán và can thiệp sớm các TBTN sau PTSPK cho phép bảo tồn chức năng thận và giảm thiểu các di chứng về sau.
Tổn thương tiết niệu do phẫu thuật sản phụ khoa (PTSPK) là tai biến thường gặp và chiếm khoảng 1 – 2,5% [10]. Trong những năm gần đây, chỉ định PTSPK và phẫu thuật nội soi áp dụng trong sản phụ khoa được triển khai ở nhiều cơ sở khám chữa bệnh. Trình độ kỹ thuật ở các tuyến điều trị chưa đồng nhất do đó khó tránh khỏi những tổn thương gặp phải trên đường tiết niệu. Các tai biến tiết niệu (TBTN) có xu hướng tăng lên và ngày càng phức tạp [1]. Tỷ lệ tai biến của phẫu thuật nội soi ổ bụng tại bệnh viện Từ Dũ năm 2006 tăng gấp gần 4 lần (2,5%o) so với năm 2005 (0,7 %õ) [3]”
Kết quả điều trị các TBTN phụ thuộc nhiều vào thời gian phát hiện sớm, nhất là chẩn đoán được và xử trí ngay trong mổ. Nếu để muộn sẽ gây ra viêm phúc mạc nước tiểu, biến chứng ứ nước, ứ mủ thận và dẫn đến thận mất chức năng. Tỷ lệ chẩn đoán sớm TBTN trong và sau phẫu thuật còn thấp. Theo Neuman [9] thì ngoài thiểu niệu, vô niệu và rò nước tiểu được chẩn đoán sớm, các tổn thương còn lại đều chẩn đoán ở giai đoạn muộn sau 1 đến 2 tháng, thậm chí sau 10 năm. Để có được một tầm nhìn tổng quát và góp phần xử trí được sớm các TBTN hiện nay, nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu: Đánh giá kết quả can thiệp thì đầu các tai biến tiết niệu sau mổ sản phụ khoa.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
106 bệnh nhân bị TBTN có tổn thương bàng quang (BQ) và niệu quản (NQ) sau PTSPK được điều trị lần đầu tại bệnh viện Việt Đức từ 04/2005 đến 09/2010. Nghiên cứu không bao gồm các bệnh nhân tổn thương niệu quản và bàng quang do nguyên nhân
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích