Kết quả can thiệp phẫu thuật thì đầu các tai biến tiết niệu sau mổ sản phụ khoa

Kết quả can thiệp phẫu thuật thì đầu các tai biến tiết niệu sau mổ sản phụ khoa

Tổn thương tiết niệu do  phẫu thuật sản phụ khoa (PTSPK) là tai biến thường gặp và chiếm  khoảng 1  –  2,5%  [10].  Trong  những năm gần đây, chỉ định PTSPK và phẫu thuật nội soi áp dụng trong sản phụ khoa được triển khai ở nhiều cơ sở khám chữa bệnh. Trình độ kỹ thuật ở các tuyến điều trị chưa đồng nhất do đó khó tránh khỏi những tổn thương gặp phải trên đường tiết niệu. Các tai biến tiết niệu (TBTN) có xu hướng tăng lên và ngày càng phức tạp [1]. Tỷ lệ tai biến của phẫu thuật nội soi ổ bụng tại bệnh viện Từ Dũ năm 2006 tăng gấp gần 4 lần (2,5‰) so với năm 2005 (0,7 ‰) [3].
Kết quả điều trị các TBTN phụ thuộc nhiều vào thời gian phát hiện sớm, nhất là chẩn đoán được và xử trí ngay trong mổ. Nếu để muộn sẽ gây ra viêm phúc mạc nước tiểu, biến chứng  ứ nước, ứ mủ thận và dẫn đến thận mất chức năng. Tỷ lệ chẩn đoán sớm TBTN trong và sau phẫu thuật còn thấp. Theo Neuman [9] thì ngoài thiểu niệu, vô niệu và rò nước tiểu được chẩn đoán sớm, các tổn thương còn lại đều chẩn đoán ở giai đoạn muộn sau 1 đến 2 tháng, thậm chí sau 10 năm. Để có được một tầm nhìn tổng quát và góp phần xử trí được sớm các TBTN hiện nay, nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu: Đánh giá kết quả can thiệp thì đầu các tai biến tiết niệu sau mổ sản phụ khoa.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tượng
106 bệnh nhân bị TBTN có tổn thương bàng quang (BQ) và niệu quản (NQ) sau PTSPK được điều trị lần đầu tại bệnh viện Việt Đức từ 04/2005 đến 09/2010. Nghiên cứu không bao gồm các bệnh nhân tổn thương niệu quản và bàng quang do nguyên nhân khác  hoặc  bệnh nhân đã  được  phẫu thuật TBTN tại tuyến trước.
2.    Phương pháp
Nghiên cứu tiến cứu mô tả theo quy trình định trước Bệnh nhân đã được chẩn đoán TBTN sau PTSPK ở tuyến trước hoặc vào viện với các biểu hiện tổn thương BQ, NQ gây viêm phúc mạc nước tiểu, ứ nước thận do NQ bị chít hẹp buộc thắt, rò nước tiểu qua âm đạo, rò qua vết mổ hoặc tụ dịch, nước tiểu sau phúc mạc.
Bệnh nhân được làm các thăm khám chẩn đoán hình ảnh: Siêu âm, chụp niệu đồ tĩnh mạch, chụp NQ – BT ngược dòng và chụp cắt lớp vi tính 64 dãy đánh giá hình thể đài bể thận và lưu thông của NQ 2 bên, vị trí NQ bị chít hẹp, chức năng thận 2 bên. Phát hiện khối tụ dịch trong, sau phúc mạc và hình ảnh đường rò BQ – ÂĐ, rò NQ – ÂĐ. BN được soi bàng quang chẩn đoán rò BQ
– ÂĐ. Nghiệm pháp xanh methylen khi có rỉ nước tiểu qua ÂĐ cho kết quả dương tính (rò BQ – ÂĐ) hoặc âm tính (rò NQ – ÂĐ).
Phân loại tổn thương trong mổ: Vết thương bên, cắt ngang, mất đoạn NQ, rò nước tiểu gây viêm phúc mạc hoặc tụ dịch sau phúc mạc, NQ bị chít hẹp do chỉ khâu, do thiếu máu hoặc do khối xơ co kéo, rò NQ – ÂĐ. Rách BQ gây viêm phúc mạc, rò BQ – ÂĐ.
Chỉ định phương pháp phẫu thuật phục hồi tổn thương tiết niệu: Đặt ống thông, khâu vết thương NQ khi tổn thương nhỏ. Cắt đoạn hẹp nối NQ tận – tận khi đoạn NQ hẹp, xơ hóa ngắn. Cắm lại NQ – BQ: Ngoài BQ Lich – Grégoir hoặc trong BQ Politano – Leadbetter. VPM  do  tổn  thương  BQ,  NQ,  khâu  tổn thương, lau rửa ổ bụng dẫn lưu. Cắt thận khi nhu mô mỏng thận mất chức năng. Đóng rò BQ – ÂĐ đường trên hoặc dưới.
Phát hiện  biến  chứng trong và sau mổ:Chảy máu trong mổ, tổn thương tạng, nhiễm khuẩn sau mổ. Rò nước tiểu ổ bụng gây viêm phúc mạc, tụ dịch sau phúc mạc, rò nước tiểu ÂĐ. Hẹp, tắc miệng nối NQ – BQ: BN đau thắt lưng, sốt, thận to, suy thận. Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật phục hồi tổn thương tiết niệu: Tốt: Không đau thắt lưng, không ra nước tiểu ÂĐ, không đái buốt, đái rắt. Siêu âm, chụp NĐTM thận ngấm thuốc tốt, lưu thông NQ tốt. Trung bình: Có đau thắt lưng, ra nước tiểu ÂĐ từng đợt, đái són. Siêu âm,  NĐTM thận  ngấm  thuốc  chậm, đài  bể thận giãn, lưu thông NQ giảm. Xấu: Đau thắt lưng,  thận  to,  rò  nước  tiểu  ÂĐ.  Siêu  âm, NĐTM thấy chức năng thận kém hoặc mất, đài bể thận giãn, NQ hẹp hoặc có trào ngược BQ. Phải mổ lại.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment