Kết quả Cắt khối tá tụy (kinh nghiệm cá nhân qua 79 trường hợp)
Kết quả Cắt khối tá tụy (kinh nghiệm cá nhân qua 79 trường hợp)
Trịnh Hồng Sơn, Phạm Thế Anh
Đặt vấn đề
Năm 1935, Whipple và cộng sự đã mô tả cắt khối tá tụy 2 thì để điều trị ung thư vùng bóng Vater [11].
Trong thông báo này, dạ dày, môn vị và phần đầu của tá tràng được giữ lại. Đến năm 1941, chính Whipple thông báo trường hợp đầu tiên thành công cắt khối tá tụy một thì (lấy bỏ một phần dạ dày, môn vị, toàn bộ khung tá tràng, đầu tụy và phần thấp ống mật chủ) [12]. Sau năm 1941, một số tác giả đã thay đổi kỹ thuật này của Whipple. Ví dụ Watsons là người đầu tiên cắt khối tá tụy, bảo tồn môn vị (1944) [9]. Watsons đã bảo tồn toàn bộ dạ dày, môn vị và 2.5 cm tá tràng sát môn vị và lập lại lưu thông tiêu hóa bằng miệng nối tá – hỗng tràng. Kỹ thuật của Watsons không được áp dụng rộng rãi. Bằng chứng là cho tới năm 1978, Traverso và Longmire [8] mới ứng dụng phương pháp cắt tá tụy bảo tồn môn vị ở 2 bệnh nhân để giảm hội chứng sau cắt dạ dày và đảm bảo chức năng sinh lý của dạ dày, ruột.
Tóm lại, cắt khối tá tụy (DPC) là phẫu thuật bao gồm cắt cả khối gồm tá tràng, đầu tuỵ, đường mật chính, túi mật, có thể một phần dạ dày (nếu không bảo tồn môn vị) và đoạn đầu hỗng tràng. Phẫu thuật này được áp dụng để điều trị cho các tổn thương ác tính vùng đầu tuỵ, tá tràng (ung thư biểu mô đường bài xuất của tuỵ, ung thư biểu mô bóng Vater, ung thư ống mật chủ, ung thư tá tràng,…) và các tổn thương có nguy cơ ác tính tiềm tàng (u nhú ống tuyến và niêm mạc tuỵ khu trú hoặc dạng nang nhày). Ngoài ra còn được chỉ định ở một số trường hợp khối viêm tuỵ mạn, hẹp tá tràng, chấn thương, vết thương tuỵ tùy thuộc mức độ tổn thương, hoàn cảnh cụ thể[1].
Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả cắt khối tá tụy qua 79 trường hợp
Tài liệu tham khảo
1. Trịnh Hồng Sơn, Phạm Thế Anh, Nguyễn Hoàng. Nên nối tụy- dạ dày hay nối tụy-ruột trong cắt khối tá tụy. Y học thực hành, 2009, 9 (678) : 69-72.
2. Trịnh Hồng Sơn. Một số kỹ thuật trong mổ tiêu hóa. Y học thực hành, 2009, 8 (670) : 53-57.
3. Trịnh Hồng Sơn. Các phương pháp chẩn đoán giai đoạn ung thư biểu mô tụy cuối thế kỷ 20. Y học thực hành, 2001, 10: 16-20
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất