Kết quả điều trị bệnh u nguyên bào nuôi có sử dụng hoá chất tại bệnh viện phụ sản Trung Ương trong 3 năm (2003 – 2005)

Kết quả điều trị bệnh u nguyên bào nuôi có sử dụng hoá chất tại bệnh viện phụ sản Trung Ương trong 3 năm (2003 – 2005)

Bệnh nguyên bào nuôi là bệnh hay gặp ở các nước châu á và đặc biệt ở Việt Nam. Bệnh bao gồm chửa trứng và u nguyên bào nuôi (UNBN), trong đó chỉ có chửa trứng là dạng lành tính. UNBN còn có thể xuất hiện sau các tình trạng thai nghén khác như sau đẻ, sau nạo thai, sảy thai, thậm chí sau chửa ngoài dạ con[5][6].

Điều trị UNBN những năm trước 1950, chủ yếu là phẫu thuật, nhưng kết quả rất hạn chế. Sau năm 1950, methotrexat đóng vai trò chính trong điều trị. Hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam, với nhiều phác đồ điều trị có tới trên 95% bệnh nhân UNBN được điều trị khỏi hoàn toàn, ngay cả khi đã có di căn, thậm chí chức năng sinh sản cũng được bảo toàn[1][8].

Bệnh viện Phụ sản Trung Ương, một trong những trung tâm điều trị sản phụ khoa lớn của cả nước, phần lớn những bệnh nhân bị bệnh nguyên bào nuôi ở phía Bắc đều được theo dõi và điều trị tại đây. Gần đây cũng áp dụng nhiều phác đồ điều trị mới, tuy nhiên chưa có một công trình nào nghiên  cứu  đầy  đủ  về  kết  quả  điều  trị  bệnh UNBN, đặc biệt là kết quả điều trị bằng phác đồ EMA – CO. Do vậy mục tiêu nghiên cứu:

Đánh giá kết quả điều trị bệnh u nguyên bào nuôi theo các phác đồ hoá chất của bệnh viện trong 3 năm (2003 – 2005).

I. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG    PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu

Toàn bộ các trường hợp được chẩn đoán là UNBN có sử dụng hoá chất điều trị, tại bệnh viện Phụ sản Trung Ương từ tháng 1/ 2003 – 8/ 2005.

Điều trị cho tới khi ra viện, không bỏ dở  giữa chừng.

Theo dõi ngoại trú, ít nhất là một năm  sau điều trị.

U nguyên bào nuôi (UNBN) là bệnh hay gặp sau thai trứng. Điều hoá chất là bắt buộc dù có cắt tử cung hay không, với nhiều phác đồ hoá chất được áp dụng vào điều trị đã giúp tỷ lệ khỏi bệnh ngày càng cao. Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị u nguyên bào nuôi tại bệnh viện Phụ sản Trung Ương. Sử dụng bảng điểm tiên lượng bệnh của WHO, để đánh giá khách quan kết quả điều trị, từ đó áp dụng để tăng hiệu quả điều trị, giảm nguy cơ kháng thuốc và tái phát bệnh. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu các bệnh nhân u nguyên bào nuôi được điều trị bằng hóa chất tại viện Phụ Sản Trung Ương. Kết quả: 99,6% các trường hợp u nguyên bào nuôi trong giai đoạn này được điều trị khỏi, trong đó 56,1% bảo tồn được tử cung. Có 88,9% được điều trị đơn thuần từ đầu, còn lại 11,1% dùng EMA – CO. Có 23,5% ca điều trị MTX từ đầu bị kháng thuốc phải chuyển phác đồ EMA – CO, trong đó nhóm có số điểm ≥ 8 nguy cơ kháng thuốc đơn thuần cao hơn nhóm có số điểm ≤ 4 với 0R = 6,5 ( 95% CI = 1,29 – 35,9). Nhóm 5 – 7 điểm thì nguy cơ kháng thuốc cao hơn nhóm hơn nhóm ≤ 4 điểm với 0R = 2,9 (95% CI= 1,4 – 5,07). Kết luận: Chọn lựa phác đồ hóa chất nên dựa vào bảng tiên lượng của WHO.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment