KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ DỊ HÌNH VÁCH NGĂN MŨI BẰNG NỘI SOI TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ VÀ BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ DỊ HÌNH VÁCH NGĂN MŨI BẰNG NỘI SOI TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ VÀ BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ

Mũi có một cấu trúc giải phẫu rất đặc biệt, mũi nhô ra ở giữa mặt tạo nên sự hài hòa của khuôn mặt. Để đảm bảo vững chắc cho cấu trúc mũi về thẩm mỹ cũng như sự lưu thông không khí thì  vách ngăn cũng đóng vai trò rất quan trọng [1]. Khi vách ngăn không thẳng (dị hình vách ngăn) làm thay đổi về động học của luồng khí lưu thông có thể gây ra những triệu chứng khác nhau. Khi dị hình vách ngăn gây ảnh hưởng đến chức năng hô hấp, khứu giác, dẫn lưu xoang… thì mới được xem là dị hình vách ngăn cần phải điều trị [1].

Trước đây phẫu thuật vách ngăn truyền thống chủ yếu phẫu thuật qua ánh sáng của đèn Clar. Kỹ thuật nội soi cho sửa đổi dị hình vách ngăn được bắt đầu mô tả năm 1991 bởi Stammberger. Nghiên cứu của Park và cộng sự (1998) kết luận: nhìn vách ngăn dưới sự phóng đại trên màn hình cho phẫu thuật chính xác cũng như chứng minh kỹ thuật.

Ở Việt Nam cũng mới áp dụng kỹ thuật này chủ yếu ở hai đầu đất nước. Nguyễn Kim Tôn (2001). Nghiên cứu  đặc  điểm  dị  hình  vách ngăn và đánh giá kết quả phẫu thuật tại Bệnh viện  Tai  Mũi  Họng  Trung  ương.  Lê  Trần Quang Minh (2002), Chỉnh hình  vách  ngăn qua nội soi tại Trung tâm Tai mũi họng Thành phố Hồ Chí Minh. [3].

Hiện nay tại miền Trung, đặc biệt ở Huế là cơ sở giảng dạy vẫn chưa áp dụng rộng rãi kỹ thuật này mặc dù nội soi đang ngày càng phát triển. Do tính ưu việt của nội soi trong xén vách ngăn nên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: Đánh giá kết quả phẫu thuật dị hình vách ngăn mũi bằng nội soi tại bệnh viện Trung ương Huế và bệnh viên Đại học Y Dược Huế với mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật dị hình vách ngăn mũi bằng nội soi.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

1. Đối tượng

Gồm 61 bệnh nhân dị hình vách ngăn có chỉ định phẫu thuật tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Trung ương Huế và tại khoa Tai Mũi  Họng  (TMH)  –  Mắt  –  Răng  Hàm  Mặt (RHM) bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 5/2010 đến tháng 5/2011.

Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân

Gồm tất cả các bệnh nhân ≥ 16 tuổi được chẩn đoán dị hình vách ngăn mũi được phẫu thuật không phân biệt giới tính, nghề nghiệp, địa dư.

Dị hình vách ngăn được xác định  bằng thăm khám lâm sàng kết hợp với  nội soi, chụp CT Scan và được chỉ định  phẫu thuật khi có ít nhất 1 trong 5 biểu hiện sau:

+ Nghẹt mũi một hoặc hai bên mũi, thường xuyên;

+ Nhức đầu đã loại trừ bệnh lý nội khoa;

+ Ngửi kém;

+ Cơn hắt hơi chảy mũi;

+ Viêm mũi xoang kéo dài với mức độ tổn thương giải phẫu nhẹ.

Có thể kèm hay không một số biến chứng khác như: khô rát họng, ù tai, suy nhược thần kinh, viêm họng, chảy máu mũi.

Đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật dị hình vách ngăn  mũi bằng nội soi tại bệnh viện trung ương Huế và bệnh viên Đại học Y Dược Huế. Kết quả cho thấy: 61 bệnh nhân, nam chiếm 62,3 % nữ chiếm 37,7 %, nhóm tuổi 16 – 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 57,4%. Kiểu rạch niêm mạc theo kiểu Killian 68,9%, rạch kiểu chữ T 18,0% và rạch tại chỗ 13,1%. Có khâu niêm mạc 82,0%, không khâu 18,0%. Cố định vách ngăn bằng merocel 2 bên 50,8%, thêm meche tăng cường 34,4%, merocel 1 bên 9,8%, nẹp nhựa 3,3% và khâu xuyên 1,7%. Tỷ lệ tai biến trong mổ: rách niêm mạc 1 bên 21,3%, 2 bên 1,6%. Tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật: chảy máu vết mổ 1,6% và dính cuốn 1,6%. Tái khám sau 3 tháng nghẹt mũi 4,9%, nhức đầu 1,6%, hắt hơi 3,3%, viêm mũi xoang 4,9%. Kết quả khi ra viện: tốt 83,6%, trung bình 16,4%, kém 0%. Kết quả sau 3 tháng: tốt 90,2%, trung bình 9,8%, không có trường hợp nào kém. Như vậy phẫu thuật dị hình vách ngăn giúp giải quyết được sự cản trở cơ học cũng như yếu tố kích thích niêm mạc, giúp cải thiện được chất lượng cuộc sống. Toàn bộ nghiên cứu đã chỉ ra phẫu thuật nội soi có nhiều ưu điểm, kết quả tốt và ít biến chứng.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment