Kết quả điều trị dị hình vách ngăn mũi bằng nội soi tại bệnh viện trung ương huế và bệnh viện đại học y dược Huế
Đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật dị hình vách ngăn mũi bằng nội soi tại bệnh viện trung ương Huế và bệnh viên Đại học Y Dược Huế. Kết quả cho thấy: 61 bệnh nhân, nam chiếm 62,3 % nữ chiếm 37,7 %, nhóm tuổi 16 – 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 57,4%. Kiểu rạch niêm mạc theo kiểu Killian 68,9%, rạch kiểu chữ T 18,0% và rạch tại chỗ 13,1%. Có khâu niêm mạc 82,0%, không khâu 18,0%. Cố định vách ngăn bằng merocel 2 bên 50,8%, thêm meche tăng cường 34,4%, merocel 1 bên 9,8%, nẹp nhựa 3,3% và khâu xuyên 1,7%. Tỷ lệ tai biến trong mổ: rách niêm mạc 1 bên 21,3%, 2 bên 1,6%. Tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật: chảy máu vết mổ 1,6% và dính cuốn 1,6%. Tái khám sau 3 tháng nghẹt mũi 4,9%, nhức đầu 1,6%, hắt hơi 3,3%, viêm mũi xoang 4,9%. Kết quả khi ra viện: tốt 83,6%, trung bình 16,4%, kém 0%. Kết quả sau 3 tháng: tốt 90,2%, trung bình 9,8%, không có trường hợp nào kém. Như vậy phẫu thuật dị hình vách ngăn giúp giải quyết được sự cản trở cơ học cũng như yếu tố kích thích niêm mạc, giúp cải thiện được chất lượng cuộc sống. Toàn bộ nghiên cứu đã chỉ ra phẫu thuật nội soi có nhiều ưu điểm, kết quả tốt và ít biến chứng.
Mũi có một cấu trúc giải phẫu rất đặc biệt, mũi nhô ra ở giữa mặt tạo nên sự hài hòa của khuôn mặt. Để đảm bảo vững chắc cho cấu trúc mũi về thẩm mỹ cũng như sự lưu thông không khí thì vách ngăn cũng đóng vai trò rất quan trọng [1]. Khi vách ngăn không thẳng (dị hình vách ngăn) làm thay đổi về động học của luồng khí lưu thông có thể gây ra những triệu chứng khác nhau. Khi dị hình vách ngăn gây ảnh hưởng đến chức năng hô hấp, khứu giác, dẫn lưu xoang… thì mới được xem là dị hình
vách ngăn cần phải điều trị [1].
Trước đây phẫu thuật vách ngăn truyền thống chủ yếu phẫu thuật qua ánh sáng của đèn Clar. Kỹ thuật nội soi cho sửa đổi dị hình vách ngăn được bắt đầu mô tả năm 1991 bởi Stammberger. Nghiên cứu của Park và cộng sự (1998) kết luận: nhìn vách ngăn dưới sự phóng đại trên màn hình cho phẫu thuật chính xác cũng như chứng minh kỹ thuật.
Ở Việt Nam cũng mới áp dụng kỹ thuật này chủ yếu ở hai đầu đất nước. Nguyễn Kim Tôn (2001). Nghiên cứu đặc điểm dị hình vách
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích