Kết quả điều trị phẫu thuật sa trực tràng
Sa trực tràng là một đoạn trực tràng chui qua lỗ hậu môn khi rặn đại tiện hay khi có một động tác gắng sức. Sa trực tràng là bệnh lý ít gặp, thường không nguy hiểm nhưng gây phiền hà cho bệnh nhân trong sinh hoạt. Nguyên nhân của sa trực tràng vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Một số yếu tố thuận lợi: đại tràng sigma dài, túi cùng Douglas sâu, cơ nâng hậu môn yếu, góc hậu môn – trực tràng rộng hơn bình thường,… [6]. Sa trực tràng có thể đơn thuần hay phối hợp với các sa các tạng khác vùng tiểu khung như sa sinh dục, sa niệu đạo– bàng quang,…. Điều trị sa trực tràng có thể điều trị bảo tồn tạm thời hoặc phẫu thuật với rất nhiều phương pháp. Có thể lựa chọn hai đường mổ: đường bụng hoặc đường tầng sinh môn. Các phẫu thuật đường bụng chia làm 3 nhóm chính: chữa lại sàn chậu gây thoát vị + đóng lại túi cùng; cố định trực tràng (với các phương pháp như Orr – Loygue hay khâu treo trực tràng sử dụng các mảnh prolene,…); hoặc cắt bỏ đoạn ruột dài. Có thể phối hợp các phương pháp. Với đường tầng sinh môn có thể sử dụng các kỹ thuật: khâu thiết chặt bớt lỗ hậu môn; cắt vòng niêm mạc trực tràng + khâu gấp nếp cơ trực tràng (PT Delorme); hay cắt đoạn đại – trực tràng sa qua đường tầng sinh môn
[7]. Chỉ định và kết quả điều trị tùy thuộc từng phương pháp. Công trình có mục tiêu:
Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật sa trực tràng tại khoa phẫu thuật Tiêu hóa, bệnh viện Việt Đức trong giai đoạn 2001 – 2008.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: 26 bệnh nhân sa trực tràng được phẫu thuật tại khoa phẫu thuật Tiêu hóa, bệnh viện Việt Đức trong khoảng thời gian từ 1/2001 đến 12/2008.
2. Phương pháp nghiên cứu: mô tả hồi cứu.
3. Dữ liệu nghiên cứu: các dữ liệu chung về bệnh nhân; Các phương pháp phẫu thuật và các tai biến, biến chứng; Đánh giá kết quả xa sau mổ: di chứng, tái phát; Đánh giá kết quả chung sau mổ chia làm 3 mức độ: tốt (không tai biến, biến chứng, không tái phát, không di chứng, bệnh nhân rất hài lòng sau mổ); trung bình (không tai biến, biến chứng nặng, không tái phát, không di chứng nặng, bệnh nhân hài lòng sau mổ); kém (có tai biến, biến chứng, tái phát, hoặc di chứng nặng sau mổ).
Xử lý số liệu: số liệu được thu thập và được xử lý theo chương trình SPSS 16.0.
Mục tiêu: đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật bệnh nhân sa trực tràng tại khoa phẫu thuật Tiêu hoá, bệnh viện Việt Đức giai đoạn 2001 – 2008. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả hồi cứu trên 26 bệnh nhân sa trực tràng được phẫu thuật tại khoa Tiêu hóa, bệnh viện Việt Đức trong khoảng thời gian từ 1/2001 đến 12/2008. Kết quả: 26 bệnh nhân sa trực tràng đã được mổ. Bệnh thường gặp ở phụ nữ cao tuổi, 45% trên 70 tuổi, trung bình 62 tuổi. 15% phối hợp sa sinh dục. 58% được phẫu thuật theo phương pháp Orr – Loygue, 42% theo phương pháp Delorme. Không có tai biến, biến chứng và di chứng nặng sau phẫu thuật. Tỷ lệ tái phát 2/22, tương ứng 9%. Kết quả chung loại tốt 82%, với thời gian theo dõi trung bình 30,8 tháng. Kết luận: Sa trực tràng là bệnh ít gặp. Hay gặp ở phụ nữ hơn nam giới. Bệnh có thể kết hợp với sa sinh dục, tiết niệu. Lựa chọn phương pháp mổ phải tuỳ thuộc tình trạng toàn thân, do thường gặp ở người cao tuổi. Có thể sử dụng một kỹ thuật mổ hay phối hợp do yêu cầu thương tổn giải phẫu.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích