KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PROGESTINS VÀ ĐỒNG VẬN GnRH SAU PH ẪU THUẬT NỘI SOI BÓC U LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG Ở BUỒNG TRỨNG
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PROGESTINS VÀ ĐỒNG VẬN GnRH SAU PH ẪU THUẬT NỘI SOI BÓC U LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG Ở BUỒNG TRỨNG
Trần Thị Thu Lan*, Nguyễn Duy Tài**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị Progestins và đồng vận GnRH sau phẫu thuật nội soi bóc nang LNMTC ở buồng trứng.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng. Dân số nghiên cứu: Các bệnh nhân sau phẫu thuật nộisoi bóc nang LNMTC ở buồng trứng tại khoa nội soi BV Từ Dũ, không mong muốn có thai trong vòng một năm sau phẫu thuật. Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên vào hai nhóm: Progestins (Lynestrenol): 10mg uống mỗi ngày trong 6 tháng. Đồng vận GnRH (Gosereline): 3,6mg tiêm dưới da mỗi 4 tuần trong 3tháng. Siêu âm tìm nang LNMTC tái phát sau 9 thángphẫu thuật bóc nang.
Kết quả: 172 bệnh nhân nang LNMTC ở buồng trứng được chọn vào nghiên cứu với hai phác đồ. Tỷ lệ tái phát phác đồ GnRH-a là 12,8% thấp hơn phác đồ Progestins là 15,1% (p>0,05). Yếu tố ảnh hưởng đến tái phát nang LNMTC là giai đoạn AFS và đường kính nang lớn nhất, nang hai bên (p<0,05). Tác dụng phụ của phác đồ GnRH-a là có cơn bốc hoả (27,9%) sau mũi tiêm thứ 2 và 3, phác đồ Progestins là xuất huyếtdạng chấm (18,4%) sau 3 tháng điều trị.
Kết luận: Chúng tôi nhận thấy đồng vận GnRH làm giảm tái phát nang LNMTC ở buổng trứng sau phẫu thuật nội soi bóc nang so với Progestins. Để khảo sát hiệu quả của Progestins và GnRH-a lên khả năng tái phát nang LNMTC ở buồng trứng chúng tôi cần có nghiên cứu khác với cỡ mẫu lớn hơn và thời gian theo dõi dài hơn.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất