KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SỎI TRONG GAN VỚI PHẪU THUẬT NỘI SOI SO SÁNH VỚI MỔ MỞ CÓ KẾT HỢP KỸ THUẬT TÁN SỎI ĐIỆN THỦY LỰC
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SỎI TRONG GAN VỚI PHẪU THUẬT NỘI SOI SO SÁNH VỚI MỔ MỞ CÓ KẾT HỢP KỸ THUẬT TÁN SỎI ĐIỆN THỦY LỰC
Đỗ Trọng Hải
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Với những tiến bộ của các kỹ thuật và phương tiện mới trong chẩn đoán và điều trị, hiện nay ngoài phẫu thuật kinh điển, các thầy thuốc ngoại khoa gan mật đã có trong tay nhiều vũ khí hơn để điều trị sỏi trong gan (STG) như phẫu thuật nội soi OMC, nội soi đường mật ngược dòng (ERCP), nội soi đường mật xuyên gan qua da, lấy sỏi qua đường hầm Kehr, tán sỏi thủy điện lực… Tuy nhiên mỗi phương pháp điều trị đều có những ưu điểm và chỉ định khác nhau. Việc áp dụng những phương pháp này tùy thuộc vào nhiều điều kiện như vấn đề trang bị phương tiện, kỹ thuật và trình độ kinh nghiệm của thầy thuốc chuyên khoa tại mỗi cơ sở. Mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả của việc điều trị sỏi trong gan bằng phẫu thuật NS so sánh với mổ mở và có kết hợp tán sỏi điện thủy lực về tỉ lệ lấy sạch sỏi, tỉ lệ tử vong và biến chứng.
Phương pháp: hồi cứu, mô tả cắt ngang. Mẫu nghiên cứu gồm 94 BN sỏi đường mật trong gan được mổ nội soi hoặc mổ mở có kết hợp sử dụng các kỹ thuật điều trị ít xâm phạm như nội soi đường mật trong mổ lấy sỏi, lấy sỏi qua đường hầm Kehr và lấy sỏi qua da tại BV ĐHYD TP.HCM từ tháng 11 năm 2001 đến tháng 11 năm 2004. Các BN được chia làm 2 nhóm: nhóm mổ nội soi (41BN) và nhóm mổ mở (53BN).
Kết quả: Hai nhóm BN tương đồng về tuổi, giới và vị trí cũng như số lượng sỏi. Tỉ lệ hẹp đường mật cũng tương đồng ở 2 nhóm. Thời gian mổ trung bình là 100,1 phút ở nhóm mổ NS và 121,5 phút ở nhóm mổ mở. Nội soi đường mật tán sỏi thường được thực hiện ngay trong mổ ở nhóm mổ mơ (62,3%), còn mổ NS thường chỉ áp dụng tán sỏi qua Kehr sau mổ (65,8%). Tỉ lệ sót sỏi chủ động của 2 nhóm là 70,7% (mổ NS) và 47,1% (mổ mở). Sỏi sót được lấy qua đường hầm Kehr hoặc/và lấy sỏi xuyên gan qua da. Ở nhóm mổ mở trung bình 2,3 lần qua Kehr/BN và nhóm mổ NS là 2,7 lần qua Kehr/BN và 9 BN phải lấy sỏi qua da (4,1 lần/BN). Không có tử vong sau mổ. Biến chứng của nhóm mổ NS chảy máu 6 ca, tụ dịch dưới hoành 5 ca, tụ máu gan 3 ca. So sánh với nhóm mổ mở bao gồm chảy máu 8 ca, tụ dịch dưới hoành 4 ca, tụ máu gan 5 ca. Tỉ lệ tử vong và tai biến không khác nhau giữa 2 nhóm nhưng ở nhóm mổ NS tránh được biến chứng nhiễm trùng vết mổ và BN mau hồi phục hơn. Thời gian nằm viện trung bình là 37 ngày ở nhóm mổ NS và 45 ngày ở nhóm mổ mở.
Kết luận: PTNS có thể điều trị tốt bệnh sỏi trong gan an toàn và hiệu quả có thể so sánh với phẫu thuật mổ mở kinh điển và còn đem lại những lợi ích của kỹ thuật điều trị ít xâm phạm làm tăng chất lượng điều trị. Tuy nhiên cần trang bị đủ phương tiện nội soi và máy tán sỏi thủy điện lực và PTV phải thành thạo kỹ năng nội soi và tán sỏi.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất