KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT KHI GẮNG SỨC Ở PHỤ NỮ BẰNG GIÁ ĐỠ DƯỚI NIỆU ĐẠO TOT TẠI BỆNH VIỆN FV TP HỒ CHÍ MINH
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT KHI GẮNG SỨC Ở PHỤ NỮ BẰNG GIÁ ĐỠ DƯỚI NIỆU ĐẠO TOT TẠI BỆNH VIỆN FV TP HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Ngọc Tiến*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Mục đích của nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả cũng như tính an toàn của phương pháp mổ ít xâm lấn đặt dãi băng TOT qua lỗ bịt điều tri tiểu không kiểm soát khi gắng sức (TKKSKGS) ở phụ nữ.
Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu: 126 phụ nữ bị TKKSKGS trên lâm sàng, khám nghiệm pháp Bonney (+) và xét nghiệm niệu động lực học cho thấy vùng kiểm soát nước tiểu âm tính >70%. Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật đặt dãi băng TOT dưới niệu đạo (từ 02/2006 đến 10/2010). Có 5 BN có phẫu thuật điều trị TKKS trước đó. Có 4 BN được phẫu thuật sa bàng quang đi kèm. Tuổi trung bình 54 tuổi (39-85). Dãi băng polypropylene (Cousin, Aspide Medicale) được đặt dưới niệu đạo qua lỗ bịt theo hướng từ trong ra ngoài. Thời gian theo dõi trung bình 12 tháng. Đánh giá biến chứng quanh và sau mổ, kết quả khách quan qua nghiệm pháp gắng sức, kết quả chủ quan qua các câu hỏi về sự hài lòng của BN sau phẫu thuật.
Kết quả: Đánh giá kết quả sau 1 năm thành công 96,8%, có cải thiện nhưng xem như thất bại 3,2%. Biến chứng quanh và sau mổ 19,8% không có vết thương mạch máu, thần kinh hay ống tiêu hóa. Có 9 BN (7,1%) đau đùi nhẹ sau mổ. 12 BN (9,5%) có rối loạn đi tiểu sau mổ (tiểu khó hay bí tiểu). Không có hiện tượng đào thải mảnh ghép hay bào mòm âm đạo trong quá trình theo dõi.
Kết luận: Sau 1nămnghiêncứutiếncứukỹ thuật mổqualỗ bịtđược khởixướngbởi E Delorme, có thể
khẳng định đây là một phương pháp mổ để điều trị TKKSKGS ở phụ nữ mang tính đơn giản nhưng hiệu quả và an toàn với biến chứng không thấp, có thể phối hợp cùng lúc với phẫu thuật điều trị sa tạng chậu.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiểu không kiểm soát khi gắng sức(29) được định nghĩa là một hiện tượng thoát nước tiểu ra ngoài niệu đạo không theo ý muốn cũng như không do sự co thắt của cơ détrusor. Hiện tượng này diên ra nặng dần đên một lúc nào đó người phụ nữ cảm thấy “tàn phê” với chất lượng cuộc sống suy giảm®. Nhiều tiên bộ đã được báo cáo từ đầu thê” kỷ về phát triển phẫu thuật kiểm soát nước tiểu. Kelly, Dumm (1914)(20) và sau đó, Bonney(5) đã ghi nhận hiện tượng mất nâng đỡ vùng niệu đạo trên những phụ nữ tiểu không kiểm soát khi gắng sức nên đã đề nghị phương pháp khâu nêp gấp của cân quanh niệu đạo. Đên 1949, Marshall(26) theo kinh nghiệm của mình đã đính mô quanh niệu đạo vào xương mu để làm giảm đi hiện tương tiểu không kiểm soát khi gắng sức. Nhiều tác giả sau đó đã phát triển kỹ thuật chống tiểu không kiểm soát bằng cách cô’ định gián tiêp cổ bàng quang và mô xung quanh niệu đạo thông qua âm đạo (treo cổ bàng quang qua dây chằng Cooper theo Burch, treo cổ bàng quang đơn giản theo Pereyra và Raz…). Năm 1976, Richardson(32) đã đề nghị phương pháp điều trị tùy theo từng bệnh nhân và theo sinh lý bệnh học. Thật vậy, cùng giai đoạn này, người ta đã phân biệt được hiện tượng tiểu không kiểm soát do suy yêu cơ vòng và hiện tượng tiểu không kiểm soát do suy yêu sự nâng đỡ niệu đạo đi kèm với tăng dịch chuyển của niệu đạo(21). Do đó, De Lancey (1994) đã nhấn mạnh vai trò rất quan trọng của việc nâng đỡ niệu đạo(1011) song song đó Petros và Ulmsten đã mô tả hệ thống nâng đỡ niệu đạo “động”, đã làm nền tảng cho kỹ thuật đặt giá đỡ
dưới niệu đạo không căng TVT và sau đó là kỹ thuật TOT.
Tại Việt Nam, từ lâu các phẫu thuật viên niệu khoa cũng đã ứng dụng các kỹ thuật điều trị tiểu không kiểm soát như kỹ thuật Marion- Kelly, Marshall- Marchetti, Goebell Stoeckell, Burch…. Tuy có nhiều kỹ thuật điều trị, nhưng vân chưa có kỹ thuật nào có thể nói là tối ưu, do đó chúng tôi nghiên cứu một phương pháp với hy vọng điều trị tốt và phù hợp nhất trong hoàn cảnh Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất