Kết quả điểu trị viêm loét giác mạc nặng do nam bằng phẫu thuật ghép giác mạc
Viêm loét giác mạc (VLGM) do nấm là một bệnh rất thường gặp trong bệnh lý giác mạc. Điều trị loét giác mạc do nấm khó khăn hơn so với các loét do vi khuẩn vì nấm ít nhạy cảm với kháng sinh, các thuôc kháng sinh chông nấm không nhiều, nguy cơ thủng giác mạc cao VLGM gây dọa thủng, thủng giác mạc thực sự có thể lên tới 16,8%. Việc bảo tổn sự toàn vẹn của nhãn cầu và thị lực trong những trường hợp này là rất khó khăn. Tại khoa Kết Giác mạc, bệnh viện Mắt trung ương, VLGM do nấm được điều trị phối hợp bằng Amphotericin B nhỏ mắt và Sporal uông, tỷ lệ khỏi là 81,6% (80/98 mắt); có 18,4% (18/98 mắt) không đáp ứng với điều trị nội khoa, phải ghép giác mạc hoặc múc nội nhãn [1, 2].
Để cứu vãn các trường hợp VLGM nặng, không phải bỏ nhãn cầu, bảo tổn thị lực, cần phải lấy hết phần giác mạc bị tổn thương và thay thế bằng tổ chức giác mạc lành. Ghép giác mạc (GGM) là phương pháp điều trị duy nhất có thể đáp ứng với yêu cầu đó. Ở nước ta, phẫu thuật ghép giác mạc điều trị viêm loét giác mạc đã được thực hiện từ lâu. Tuy nhiên, do giác mạc không có thường xuyên, nguổn chủ yếu là từ các mắt chấn thương nên chất lượng mảnh ghép không đổng đều, kết quả phẫu thuật còn hạn chế và chưa được đánh giá một cách có hệ thông. Hiện nay, nhờ sự giúp đỡ của các tổ chức quôc tế, nguổn giác mạc và chất lượng giác mạc đã đổng đều và thường xuyên hơn. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này để đánh giá kết quả điều trị VLGM do nấm nặng bằng phẫu thuật GGM về các phương diện loại trừ nhiễm trùng, bảo tổn thị thực cũng như các biến chứng phẫu thuật.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện tại khoa Kết-Giác mạc, bệnh viện Mắt TƯ từ tháng 6/2004 đến tháng 12/2006 trên 64 BN với 64 mắt VLGM do nấm nặng, là những mắt đã được điều trị tích cực bằng nội khoa nhưng tình trạng viêm loét không giảm, ổ loét, áp xe rộng > 5mm, hoặc áp xe toàn bộ chiều dày giác mạc hoặc VLGM có thủng giác mạc, có đường kính lỗ thủng lớn hơn 2mm, hoặc thủng nhỏ hơn 2mm nhưng giác mạc xung quanh vẫn còn thẩm lậu hoặc áp xe nặng. BN không có các bệnh lý toàn thân nặng, đổng ý GGM và có thể đến khám và điều trị sau ghép theo hẹn.
Kỹ thuật mổ: BN được ghép GM xuyên, dùng mảnh được lấy từ mắt của tử thi theo tiêu chuẩn Hiệp hội Ngân hàng Mắt Mỹ. Toàn bộ phần GM tổn thương được lấy hết và thay thế hoàn toàn bằng giác mạc lành.
Điều trị hậu phẫu: tiếp tục dùng các thuốc chống nấm tại mắt và toàn thân, các thuốc dinh dưỡng giác mạc, giúp liền mảnh ghép. Corticoit được cân nhắc để dùng sớm, ngay sau khi dấu hiệu nhiễm trùng được khống chế. Thuốc được dùng thăm dò liều 1 giọt/ngày, sau đó tăng lên 4-6 giọt/ngày để làm giảm nguy cơ phản ứng mảnh ghép.
BN được theo dõi và ghi nhận kết quả về tình trạng nhiễm trùng, độ trong của mảnh ghép, thị lực, các biến chứng trong và sau mổ, phản ứng miễn dịch mảnh ghép. Thời gian theo dõi ngắn nhất là 12 tháng, dài nhất là 24 tháng.
Mục tiêu: đánh giá kết quả điều trị viêm loét giác mạc nặng do nấm (VLGM) bằng phẫu thuật GGM. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trên 64 mắt VLGM nặng do nấm được điều trị bằng phẫu thuật GGM. Sau mổ BN vẫn được tiếp tục điều trị bằng kháng sinh chông nấm, dinh dưỡng giác mạc, chông viêm và chông thải ghép. Kết quả phẫu thuật, các biến chứng trong, sau mổ 1 năm được ghi nhận và phân tích. Kết quả: Tỷ lê bảo tổn nhãn cầu, loại trừ được nhiễm trùng là 98,4% (63/64 mắt). Thị lực sau mổ được cải thiên ở 38/64 mắt (59,4%). Diễn biến sau mổ phức tạp, biến chứng sau mổ chủ yếu là tăng nhãn áp, đục thể thủy tinh, nhiễm trùng tái phát. Phản ứng miễn dịch thải ghép gặp trong 12/63 (19,1%) mắt. Kết luận: GGM là giải pháp hữu hiệu đề loại trừ nhiễm trùng, bảo tổn giải phẫu và chức năng cho những mắt VLGM nặng do nấm. BN cần được theo dõi thường xuyên để phát hiện và điều trị kịp thời các biến chứng
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích