Kết quả điều trị viêm xương ức sau mổ tim hở
Trong vòng 15 năm gần đây, phẫu thuật tim hở đã phát triển nhanh chóng ở Việt Nam. Viêm xương ức (VXƯ) là một biến chứng nhiễm khuẩn rất nặng đối với loại phẫu thuật này, làm tăng chi phí điều trị với nguy cơ tử vong rất cao. Do vậy, khống chế nhiễm khuẩn và điều trị hiệu quả VXƯ luôn là mục tiêu quan trọng của các trung tâm mổ tim. Vì xương ức là xương xốp, và nhiễm khuẩn xảy ra trên cơ địa người bệnh tim rất yếu, nên điều trị VXƯ thường xuyên là một vấn đề nan giải, với kết quả rất hạn chế trong gian đoạn trước đây – thể hiện ở tỷ lệ mổ lại nhiều lần 53 – 100 %, và tỷ lệ tử vong > 30 – 50 % [1; 2; 5]. Nguyên nhân thất bại chủ yếu do ổ nhiễm khuẩn tồn tại dai dẳng ở vùng mổ, nên người ta luôn tìm cách cải tiến các kỹ thuật xử lý chúng. Cho đến nay, trên thế giới đã có nhiều kỹ thuật khác nhau (hở toàn bộ, kín + tưới rửa, kín + hút Redon …), song vì nhiều khó khăn nên không thể ứng dụng nguyên bản vào điều kiện Việt Nam. Chính vì vậy, từ năm 1996 tới nay, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
1. Cải tiến và ứng dụng hai kỹ thuật xử lý ổ nhiễm khuẩn, đó là: kỹ thuật nửa kín + tưới rửa, và kỹ thuật kín + hút Redon.
2. Đánh giá hiệu quả điều trị của các kỹ thuật kể trên.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 20 trường hợp VXƯ sau mổ tim hở tại bệnh viện Việt Đức và một số bệnh viện khác của Hà Nội trong vòng 10 năm (1996 – 2006). Đối tượng được chia thành 2 nhóm theo kỹ thuật xử lý ổ nhiễm khuẩn, nhóm kỹ thuật nửa kín + tưới rửa (9 ca) và nhóm kỹ thuật kín + hút Redon (11 ca).
2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp mô tả tiến cứu, với các tham số về: đặc điểm chung (tuổi, giới, loại phẫu thuật), đặc điểm chẩn đoán VXƯ, kỹ thuật xử lý ổ nhiễm khuẩn, và kết quả điều trị. Tất cả đều được điều trị theo qui trình chung: mổ sớm sau khi có chẩn đoán VXƯ, xử lý ổ nhiễm khuẩn theo một kỹ thuật, chăm sóc sau mổ theo phác đồ chung (chăm sóc tại chỗ, kháng sinh liều cao – phổ rộng, nâng cao thể trạng).
3. Kỹ thuật xử lý ổ nhiễm trùng
Ổ nhiễm trùng được xử lý bằng 1 trong 2 kỹ thuật nêu trên – được cải tiến từ các kỹ thuật của nước ngoài. Các chi tiết được so sánh và cụ thể hoá trong bảng 1.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung và chẩn đoán VXƯ
Đối tượng nghiên cứu có tuổi trung bình là 39,4 ± 17,8 (1 – 62), gồm 13 nam (65%)) và 7 nữ (35%). Loại bệnh tim đa dạng, cả bẩm sinh và mắc phải, nhiều nhất là bệnh van hai lá (11 ca). Có đầy đủ các dấu hiệu lâm sàng của VXƯ: chảy dịch vết mổ (100%), toác da (100%), toác xương ức (95%), xưng tấy (85%), đau vùng mổ (70%), sốt (45%). Có 17 ca (85%) được chỉ định mổ VXƯ muộn sau 3 ngày kể từ khi có các dấu hiệu trên. Thời gian từ khi mổ tim hở đến khi mổ VXƯ là 19,3 ± 13,9 ngày (7 – 61). Cấy vi khuẩn dịch vết mổ cho kết quả dương tính ở 9 trường hợp (45%), trong đó nhiều nhất là trực khuẩn mủ xanh (4), tụ cầu vàng (2), tụ cầu trắng (2), và 1 trực khuẩn gram âm không lên men đường (Acinetobacter baumanni).
2. Kỹ thuật mổ và xử lý ổ nhiễm khuẩn
Tất cả các đối tượng đều được mổ dưới gây mê nội khí quản, với các phương tiện theo dõi giống như mổ tim hở cho những ca suy tim nặng. Thời gian mổ từ 150 – 240 phút. Quy trình kỹ thuật mổ và xử lý ổ nhiễm khuẩn theo các chi tiết kỹ thuật nêu trên (xem Bảng 1), trong đó từ 1996 – 2003 làm theo kỹ thuật nửa kín + tưới rửa (9 ca), còn từ 2004 – 2006 thì theo kỹ thuật kín + hút Redon cải tiến (11 ca). Riêng thủ thuật cắt bờ xương ức viêm – giũa phẳng mặt xương được thực hiện ở 17 ca (85%), trong đó có 12 ca (60%) phải tạo hình xương ức (hình 1).
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích