KẾT QUẢ ĐO CÁC CHỈ SỐ NIỆU ĐỘNG BÌNH THƯỜNG TRÊN PHỤ NỮ
KẾT QUẢ ĐO CÁC CHỈ SỐ NIỆU ĐỘNG BÌNH THƯỜNG TRÊN PHỤ NỮ
Trần Ngọc Sinh*, Phạm Diễm Thuý**
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Niệu động học là một phân chuyên ngành trong Tiết Niệu học. Ứng dụng đầu tiên của niệu động học được dùng để khảo sát chức năng đường tiết niệu trên, sau đó được đưa vào để đáng giá chức năng đường tiết niệu dưới. Bằng các chỉ số, có tính hằng định trên người thường, người ta có thể đánh giá trạng thái bệnh lý. Việc tìm ra số hằng định của người Việt Nam do đó rất cần thiết để có thể đối chiếu với chỉ số các nước và chẩn đóan thêm chính xác trên bệnh nhân Việt Nam.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hàng loạt trường hợp (TH). Đối tượng là người thường, tự nguyện hoặc bệnh nhân nhập viện tại khoa Tiết niệu, Bệnh viện Chợ Rẫy, không bệnh lý đường tiết niệu dưới. Các chỉ số đo là: dung tích sinh lý bàng quang đo thủ công (đo lượng nước tiểu đái ra+ RU), áp lực đồ bàng quang với các chỉ số: dung tích đổ đầy bàng quang đo trên máy, dung tích cảm giác đầu tiên (Cg1), dung tích cảm giác mắc tiểu đầu tiên (Cg2), dung tích cảm giác buồn đi tiểu dữ dội (Cg3), niệu dòng đồ (Qmax, Qave), áp lực cơ chóp bàng quang (Pdet), áp lực ổ bụng đo qua âm đạo (Pabd), áp lực trong bàng quang (Pves), áp lức niệu đạo (Pu). Đo bằng máy đo niệu động hiệu Albyn Medical (Tây Ban Nha). Bảng đáng giá quốc tế triệu chứng đường tiết niệu (IPSS) được thực hiện để loại trừ TH có triệu chứng (dưới 7/35 điểm).
Kết quả: 30 TH có đủ yếu tố để chọn lựa, nữ. Tuổi trung bình 44,0 ± 9,1 tuổi. Chỉ số khối cơ thể trung bình 21,6 ± 2,1 (kg/m2). Dung tích bàng quang= 330,09 ± 147,88 mL (nếu đo thủ công), không có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi. Áp lực đồ bàng quang qua máy: dung tích đổ đầy bàng quang= 351,5 ± 67,1mL, không có sự khác biệt theo tuổi và IPSS từ 1 đến 3, Cg1 =157,5 ± 36,6 mL, Cg2=209,8 ± 51,9 mL, Cg3 =261,5 ± 54,5 mL, có khuynh hướng tăng dần theo tuổi, không thay đổi với IPSS từ 1-3. Dung tích nước tiểu tồn lưu (RU)= 18,5 ± 13,4 mL, không có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi, không có sự khác biệt giữa các nhóm có điểm IPSS từ 1 đến 3. Qmax= 5,2 mL/giây (n=30), nhóm trẻ hơn 50 tuổi có RU thấp hơn. không có sự khác biệt giữa các nhóm có điểm IPSS từ 1 đến 3. Pdet = 43,9 ± 10,7 cm H2O, không có sự thay đổi giá trị trung bình của Pdet theo tuổi. Pabd của áp lực ổ bụng (đo qua âm đạo) trong loạt này là: 53,3 ± 13,5 cm H2O, nhóm trẻ hơn 50 tuổi có Pabd cao hơn. Pves=98,2 ± 15,8 cm H2O, không có sự khác biệt giữa các lứa tuổi.
Kết luận: Lần đầu tiên tại Việt Nam các chỉ số niệu động được đo trên nhóm phụ nữ không triệu chứng đường tiết niệu dưới (IPSS ≤3/35 điểm). Các chỉ số niệu động học đường tiết niệu dưới này khác biệt hầu hết với các tác giả khác trên thế giới. Khác biệt đó không nhiều, có thể do có sự khác nhau ở khối lượng cơ thể, chủng tộc, và phái tính. Ngoài ra mẫu của khảo sát này còn nhỏ (n=30) chưa là đại diện cho nữ giới Việt Nam, nhưng cũng có thể làm tư liệu trong các đánh giá lâm sàng.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất