Kết quả giám sát một số bệnh lây truyền qua đường tình dục trên một số nhóm người có nguy cơ tại Thành phố Hà Nội
Kết quả giám sát một số bệnh lây truyền qua đường tình dục trên một số nhóm người có nguy cơ tại Thành phố Hà Nội
Nguyễn Minh Quang -Bệnh viện Da liễu Hà Nội
Ngô Văn Toàn – Đại học Y Hà Nội
Tóm tắt
Nghiên cứu sử dụng chiến lược thiết kế nghiên cứu cắt ngang 1 năm/lần nhằm mô tả tỷ lệ mắc các bệnh LTQĐTD trên một số nhóm người có nguy cơ tại Hà Nội giai đoạn 2003-2007. Đối tượng nghiên cứu bao gồm những bệnh nhân mắc các bệnh nhiễm trùng đường sinh sản, phụ nữ có thai và phụ nữ bán dâm, mỗi nhóm được xét nghiệm 1000 người/năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ hiện mắc giang mai trung bình năm cao nhất ở PNBD (3,5%), ở bệnh nhân STI (2,11%) và thấp nhất ở phụ nữ có thai (0,35%). Tỷ lệ hiện mắc bệnh lậu cao nhất ở bệnh nhân STI (19,96%) và thấp nhất ở phụ nữ có thai (0,03%)
Đặt vấn đề
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới viêm nhiễm đường sinh dục là các viêm nhiễm tại cơ quan sinh dục bao gồm cả viêm nhiễm do bệnh lây truyền qua đường tình dục và viêm nhiễm khác không lây qua quan hệ tình dục. Cả phụ nữ và nam giớiđều có thể bị mắc viêm nhiễm đường sinh dục. Bệnh lây truyền qua đường tình dục (BLTQĐTD) có thể do các tổ chức, các vi sinh vật bình thường hiện hữu trong đường sinh dục gây nên, hoặc do các tác nhân bên ngoài, do quan hệ tình dục, hoặc do thủ thuật y tế.Trên thế giới hàng năm có trên 340 triệu trường hợp mới mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục [1]. Đối với phụ nữ các viêm nhiễm đường sinh dục thường gặp nhiều hơn
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất