Kết quả lâu dài phầu thuật cắt bè củng giác mạc có ghép màng ối điều trị glôcôm tái phát sau mổ
Phẫu thuật cắt bè CGM là phương pháp phổ biến điều trị glôcôm. Kết quả phẫu thuật này sẽ tạo được khoang trống giữa kết mạc và củng mạc được gọi là sẹo bọng. Bọng này có chức năng chứa thuỷ dịch và tạo hiệu quả hạ được NA và bảo tồn được TL. Trải qua thời gian, bọng có quá trình liền sẹo. Hậu quả dẫn tới xơ hoá và mất chức năng của sẹo bọng. Các nhà nghiên cứu luôn tìm tòi các vật liệu ức chế tạo sẹo xơ. Trong lịch sử nhãn khoa, trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều biện pháp đặc biệt, việc sử dụng thuốc chống chuyển hoá Mitomycin c và 5 Fluorouracil trong và sau phẫu thuật cắt bè ngày càng phổ biến. Phương pháp này nâng cao hiệu quả phẫu thuật cắt bè rõ rệt nhưng có một vài tác dụng không mong muốn như ảnh hưởng đến TL: viêm giác mạc, phù hoàng điểm do nhãn áp thấp…và đặc biệt là nguy cơ rò vỡ sẹo bọng đưa đến nhiễm trùng sẹo bọng và nhiễm trùng nội nhãn. Việc tìm chất liệu thay thế tăng hiệu quả PT cắt bè mà hạn chế tối đa biến chứng rất cần thiết.
Màng ối người là mô sinh học vô mạch có thể cấy ghép đồng loại. Màng này đã được FDA (Mỹ) chứng minh có các đặc tính sinh học: khả năng ức chế quá trình tạo xơ, ức chế quá trình tăng sinh mạch máu, chống viêm, kháng khuẩn, ức chế miễn dịch, không bị thải loại mảnh ghép. Trên thế giới, màng ối người đã được sử dụng để sửa chữa những rối loạn bề mặt nhãn cầu. Từ những năm đầu thế kỷ 20 khi đặt màng ối dưới vạt kết mạc và củng mạc, sẹo bọng của thỏ thực nghiệm được cải thiện rõ rệt thông qua cơ chế giảm xơ và chống viêm. Nghiên cứu của Lu H (2003), Stavrakas p (2008) đều đưa ra nhận xét sử dụng PT cắt bè CGM ghép màng ối ở người hiệu quả và an toàn. Chúng tôi đã có báo cáo kết quả ban đầu (sau 5 tháng) của PT năm 2008. Để nhận định hiệu quả PT lâu dài hơn nên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài này với mục tiêu: Đánh giá kết quả lâu dài của phẫu thuật cắt bè CGM có ghép màng ối.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích