Kết quả phẫu thuật bướu giáp đơn thuần độ III-IV với vô cảm bằng châm tê

Kết quả phẫu thuật bướu giáp đơn thuần độ III-IV với vô cảm bằng châm tê

Bướu giáp đơn thuần (BGĐT) – thường được gọi là bướu cổ, là loại bệnh lý phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới, với tỷ lệ mắc bệnh chiếm khoảng 10 – 12% dân số, trong đó đa số là nữ giới [1, 3, 4, 5, 6]. Bệnh có ít triệu chứng nên thường được phát hiện khi bướu đã khá to, có khi tới độ III – IV gây biến dạng vùng cổ, ảnh hưởng đến sinh hoạt của người bệnh và có thể gây ra một số biến chứng [1, 4]. Phẫu thuật điều trị BGĐT được xem là biện pháp có tính bền vững. Vô cảm vùng mổ bằng châm tê là kỹ thuật đã được nghiên cứu và áp dụng phổ biến ở Việt Nam [4, 7]. Bên cạnh lợi ích kinh tế, châm tê còn giúp cải thiện một số hạn chế của gây mê nội khí quản kinh điển, như phù nề thanh quản (0,5%), thương tổn thần kinh quặt ngược (0,7 – 1,8%) [4, 5, 6, 8, 9]. Tuy nhiên, do người bệnh vẫn tỉnh táo và tự thở trong suốt cuộc mổ, nên đối với BGĐT độ III – IV, các thao tác phẫu thuật có thể khó khăn hơn. Tại bệnh viện Châm cứu Trung ương, phẫu thuật BGĐT với vô cảm bằng châm tê được ứng dụng ngay từ năm 1992, và chiếm tới 80% (3200 ca) tổng số các phẫu thuật (PT). Tuy đã có một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả vô cảm, nhưng là dưới cách nhìn của các nhà Châm tê [6], [7], chứ không phải dưới góc độ Ngoại khoa, nhất là đối với BGĐT to độ III – IV. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu:
Đánh giá kết quả PT bướu giáp đơn thuần độ III – IV với vô cảm bằng châm tê.
I.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CÚU
1.    Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm những bệnh nhân (98 ca) mắc bệnh BGĐT độ III – IV, có chỉ định PT và tự nguyện đăng ký mổ cắt bướu với phương pháp vô cảm bằng châm tê, tại khoa Ngoại bệnh viện Châm cứu Trung ương, từ 2 / 2005 tới 6 / 2006.
2.    Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến cứu, với các tham số về : đặc điểm bệnh BGĐT, đặc điểm của PT cắt bướu giáp với vô cảm bằng châm tê (vô cảm, kỹ thuật mổ), và kết quả sau mổ (hậu phẫu, kiểm tra sau 3 tháng). Số liệu được xử lý bằng các thống kê y học.
Quy trình phẫu thuật BGĐT với vô cảm bằng châm tê:
–    Châm tê: theo phác đồ và kỹ thuật châm tê mổ bướu cổ của Nguyễn Tài Thu [6, 7]. Đánh giá hiệu quả châm tê theo tiêu chuẩn của các tác giả trong nước [1, 4, 5, 6], gồm 4 mức: Loại A (tốt) – không đau hoặc chỉ hơi tức, PT thuận lợi. Loại B (khá) – đau ít, nằm yên, PT thuận lợi. Loại C (trung bình) – đau vừa, phải kết hợp thuốc tiền mê hoặc giảm đau, PT vẫn thực  hiện  được. Loại D (thất bại) – đau nhiều, giãy giụa, phải chuyển phương pháp vô cảm khác mới PT tiếp được.
–    Quy trình phẫu thuật: về cơ bản giống như mổ BGĐT với gây mê nội khí quản [2], gồm các thì sau: Thì 1 – Rạch da vòng cung  trước cổ dài khoảng 8 – 10cm, tạo vạt da và tách cơ theo chiều dọc, bộc lộ bướu. Thì 2 – Phẫu tích quanh bướu và kiểm soát các mạch nuôi tuyến giáp. Thì 3 – Giải
–    Khá:  có  một  biến  chứng  sau  mổ  (nhiễm trùng, chảy máu, suy giáp), nhưng phục hồi tốt sau điều trị. Khám kiểm tra thấy sẹo mổ dúm – đau, nuốt vướng, khí quản bị lệch  vẹo nhưng không hẹp trên X quang, lao động  sinh hoạt tương đối bình thường.
Kém: có biến chứng sau mổ, điều trị  phục hồi chậm. Khám kiểm tra thấy bướu to trở lại, sức khoẻ kém, giảm hoặc mất khả năng lao động.

Bướu giáp đơn thuần là bệnh lý rất phổ biến ở Việt Nam. Phẫu thuật các thể bướu giáp với vô cảm bằng châm tê đã được nghiên cứu và áp dụng ở nhiều nơi. Mục tiêu: đánh giá kết quả phẫu thuật bướu giáp to độ III-IV với vô cảm bằng châm tê tại bệnh viện Châm cứu Trung ương. Đối tượng và phương pháp: 98 ca phẫu thuật bướu giáp đơn thuần được mô tả về các đặc điểm chung trước mổ, phẫu thuật cắt bướu và kết quả sau mổ. Kết quả và bàn luận: có 94,9% bệnh nhân là nữ giới, với độ tuổi thường gặp nhất là 40-65 (57,1%). Bướu độ III chiếm 91,8%, có 18,3% bướu to chèn ép vào tổ chức xung quanh. Phương pháp phẫu thuật gồm: cắt thuỳ (47%), cắt bướu (26,5%), cắt gần hoàn toàn giáp trạng (26,5%), với 100% vô cảm bằng châm tê thành công, trong đó 92,9% đạt mức vô cảm tốt. Kết quả sớm sau mổ có 98% diễn biến thuận lợi, chỉ có 2 ca biến chứng nhẹ (tụ máu dưới da, cơn tetani) được điều trị bảo tồn. Tất cả bệnh nhân đều được khám kiểm tra sau mổ 3 tháng, với kết quả tốt chiếm 94,9%, có 5 ca đạt loại khá (1 ca suy giáp, 3 ca sẹo xấu, 1 ca đau vùng mổ), không có loại kém. Kết luận: Bướu giáp đơn thuần to độ III-IV có thể được phẫu thuật thường qui đạt kết quả tốt với vô cảm bằng châm tê.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment