KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT KHỐI TÁ TỤY SỬ DỤNG PHUƠNG PHÁP NỐI TỤY RUỘT TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC NĂM 2010

KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT KHỐI TÁ TỤY SỬ DỤNG PHUƠNG PHÁP NỐI TỤY RUỘT TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC NĂM 2010

 Qua 31 bệnh nhân (BN) mổ  cắt khối tá tràng  (CKTT)  làm miệng nối tụy ruột tại Bệnh viện Việt Đức từ 01  –  01  –  2010 đến 31  –  12  –  2010, chúng tôi thấy  chỉ định phẫu thuật chủ yếu cho các tổn thương vùng đầu tụy (u đầu tụy, u Vater, viêm tụy mạn…). Đau bụng vùng thượng vị, sút cân, vàng da là những triệu chứng lâm sàng hay gặp. 2 BN chảy máu phải mổ lại,1 BN xuất huyết tiêu hóa điều trị bảo tồn, 1 BN tràn dịch màng phổi, 1 BN viêm tụy cấp, không ghi nh ận được biến chứng rò tụy, không có BN nào bị biến chứng chậm lưu thông dạ dày. Tuy nhiên, chưa có sự thống nhất trong chẩn đoán và điều trị các biến chứng này. 

 Phẫu thuật CKTT đầu  tụy  là phẫu thuật bao gồm cắt cả khối gồm tá tràng, đầu  tụy, đường mật chính, túi mật, một phần dạ dày và đoạn đầu hỗng tràng được Whipple thực hiện thành công lần đầu tiên trên người vào năm 1935 [8]. Phẫu thuật này được chỉ định để điều trị các bệnh lý lành tính, ác tính vùng đầu tụy như: ung thư đầu tụy, ung thư bóng Vater, viêm tụy mạn… và các trường hợp chấn thương, vết thương vùng tá tràng, đầu tụy.
 
Trong những năm từ 1935 –  1980,  phẫuthuật CKTT đầu tụy có tỷ lệ tai biến và biến chứng cao (40 – 60%) và tỷ lệ tử vong cũng rất cao, có thể lên tới 20%. Nhờ những tiến bộtrong chẩn đoán, phẫu thuật, gây mê hồi sứcmà chỉ định phẫu thuật được mở rộng cho BN lớn tuổi, BN có các bệnh nội khoa (tim mạch, đái tháo đường); đặc biệt phẫu thuật nạo vét hạch kèm theo, cắt đoạn tĩnh mạchcửa bị uxâm lấn đã đem lại cơ hội sống cho BN, đồng thời làm giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng sau phẫu thuật. Phẫu thuật nội soi cắt thuật CKTT đầu tụy đã được tiến hành năm 1992. Tuy nhiên, kỹ thuật thực hiện còn phức tạp và tỷ lệ tai biến và biến chứng còn cao, ít tác giả thực hiện phẫu thuật CKTT đầu tụy nội soi. Việc lập lại lưu thông tụy – đường tiêu hóa sau phẫu thuật được nhiều tác giả ghi nhận là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment