KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐỤC THỦY TINH THỂ NGOÀI BAO QUA ĐƯỜNG MỔ NHỎ VÀ PHACO
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐỤC THỦY TINH THỂ NGOÀI BAO QUA ĐƯỜNG MỔ NHỎ VÀ PHACO
Nguyễn ThếHơ , Phan Thị Hoàng Trang*
TÓM TẮT
Tổng quan: Đục thủy tinh thể là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra giảm thị lực và mù lòa ở các nước đang phát triển. Điều trị chủ yếu là phẫu thuật. Đã có một sốphương pháp phẫu thuật đểểđiều trị bệnh lý này. Ngày nay, phẫu thuật đục thủy tinh thể ngoài bao qua đường mỗ nhỏ (MSICS) và phẫu thuật nhũ tương hóa thủy tinh thể(PHACO) đã đem lại kết quả tốt cho bệnh nhân.
Mục tiêu: So sánh kết quả phẫu thuật đục thủy tinh thể qua đường mổ nhỏ và PHACO.
Phương pháp: Các mẫu của nghiên cứu bao gồm 200 bệnh nhân (nhóm tuổi 50 – 80, 91 nữ / 109 nam giới, trong đó có 100 MSICS và 100 PHACO). Hiệu quả xác định bằng thị lực, loạn thị và các biến chứng xảy ra ở ngày thứ 1, 7, 30, 90 và 180 sau khi phẫu thuật.
Kết quả: Kết quả sau 180 ngày cho thấy thị lực (TL) của nhóm MSICS và PHACO 0.86 (SD = ± 0,01, Range = 0,10-1,00) và 0,84 (SD = ± 0,02, Range = 0,06-1,00). TL trung bình chỉnh kính là 0,88 (SD = ± 0,255, Range = 0,00-0,98) và 0,91 (SD = ± 0,266, Range = 0,01-0,98) cho MSICS và PHACO. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thông kê trong tất cả các giá trị TL ở các thời điểm giữa hai nhóm. Đối với loạn thị trung bình 180 ngày sau khi phẫu thuật là 1,2 D (SD = ± 0,07), và 1,02 D (SD = ± 0,06,) tương ứng với MSICS và PHACO. Tuy nhiên, sự thay đôi loạn thị trung bình cho MSICS và PHACO không có ý nghĩa thông kê. Các biến chứng sau phẫu thuật, có 1 trường hợp phù giác mạc (1%) trong nhóm PHACO và 1 trường hợp tăng nhãn áp (1%) ở nhóm MSISC. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thông kê về’ sô’ lượng các biến chứng sau phẫu thuật giữa hai phương pháp đến ngày thứ 180 sau mô.
Kết luận: Kết quả cho thấy rằng kết quả của MSICS và PHACO không khác nhau. Vì vậy MSICS là phẫu thuật chọn lựa tốt tại một sô’bệnh viện khi chưa có đủ trang thiết bị.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo kết quả điều tra của Tổ chức Y tế’ Thế’ Giới (WHO, 2000), tỷ lệ đục thủy tinh thể chiếm khoảng 50% ở người từ 65 – 75 tuổi và hon 70% ở người trên 75 tuổi(10). Tại Việt Nam, tỷ lệ đục thuỷ tinh thể chiếm 70,7% trong các nguyên nhân gây mù, theo điều tra của Viện Mắt Trung Ưong năm 1995 tỷ lệ mù do đục thể thủy tinh chiếm 0,84% dân số'(5’9).
Trong vòng 10 năm trở lại, tại các bệnh viện ở hầu hết các địa phưong trong cả nước đã thực hiện mổ đục thủy tinh thể ngoài bao (Conventional extracapsular cataract surgery- ECCE) đặt kính nội nhãn (Intraocular Lens-IOL) đã giải quyết phần nào nhu cầu của xã hội. Những lợi ích của phẫu thuật PHACO đem lại như giảm chi phí đi lại và thời gian tái khám, thời gian phẫu thuật rút ngắn và kết quả thị lực sau mổ cải thiện tốt hon phẫu thuật lấy thủy tinh thể ngoài bao (ECCE)(846). Nhưng phẫu thuật PHACO đòi hỏi một số’ yêu cầu về nhân lực chuyên môn cũng như trang thiết bị hiện đại và chi phí cao mà một số trung tâm y tế nhỏ chưa thể thực hiện được. Do đó gần đây một số’ trung tâm mắt tại một số nước đang phát triển đã thực hiện mổ đục thuỷ tinh thể ngoài bao với cải tiến kỹ thuật qua đường mổ nhỏ (Manual Small Incision Cataract Surgery-MSICS) đem lại những lợi ích về hiệu quả cải thiện thị lực tốt hon ít biến chứng loạn thị hon phẫu thuật ECCE mà không đòi hỏi yêu cầu cao như phẫu thuật PHACO(1). Vì vậy kỹ thuật này có thể áp dụng được cho hầu hết các trung tâm y tế nhỏ trong cả nước để góp phần thực hiện mục tiêu làm giảm tỷ lệ mù do đục thủy tinh thể mà ngành y tế’ đã đặt ra. Vì lý do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả sau phẫu thuật của phưong pháp phẫu thuật MSICS so với phẫu thuật PHACO tại khoa mắt Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vưong.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất