KẾT QUẢ PHÂU THUẬT KASAI Ở BỆNH NHÂN TEO ĐƯỜNG MẬT BẨM SINH TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát kết quả và diễn tiến của bệnh nhân teo đường mật bẩm sinh sau phẫu thuật Kasai từ năm 2007 đến 2010 tại Bệnh Viện Nhi Đồng 2.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả hàng loạt ca.
Bệnh nhân:Gồmtất cả cácbệnhnhân teo đường mậtbẩmsinh đă đượcphẫu thuật Kasaitại BệnhViện
Nhi Đồng 2.
Kết quả: Có 31 bệnh nhân. Nữ nhiều hơn nam (64,5%), đa sô’ (96,8%) trẻ sinh đủ tháng, phần lớn trẻ không được ghi nhận vàng da trong giai đoạn sơ sinh (77,4%) Tuổi trung bình khi trẻ nhập viện: 76,7 ngày tuổi (36 -166). Tuổi trung bình khi phẫu thuật Kasai: 95,8 ngày tuổi (50-170). 46,7% trẻ có CMV-IgM dương tính. 32,3% bệnh nhân phẫu thuật sau 71 ngày tuổi và 38,7% sau 91 ngày tuổi 93,5 trẻ teo đường mật type III. 38,7% trường hợp dẫn lưu mật thành công. Tỉ lệ tử vong trong thời gian nghiên cứu là 8/28 (28,6%) Tỉ lệ phẫu thuật Kasai thất bại cao nhất và tử vong nhiều nhất ở trẻ mổ sau 91 ngày: 50% và 45,5%. Suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ cao: 62,5% và 56% ở trẻ phẫu thuật Kasai không thành công và dẫn lưu mật một phần. Nhiễm trùng đường mật chiếm tỉ lệ cao hơn ở nhóm phẫu thuật Kasai thành công và dẫn lưu mật một phần. 100% trẻ phẫu thuật Kasai không thành công có dấu hiệu tăng áp lực tĩnh mạch cửa trong vòng 12 tháng sau mổ 12,5% trẻ dẫn lưu mật thành công có biểu hiện tăng áp lực TMC.
Kết luận:Tỉlệ dẫn lưu mật thành công trong nhóm nghiên cứucủachúng tôichiếmtỉ lệ thấp,dođasô’
bệnh nhân được phẫu thuật trễ. Trẻ phẫu thuật Kasai thất bại có tỉ lệ các biến chứng suy dinh dưỡng, tăng áp lực tĩnh mạch cửa trong năm đầu sau mổ, và tử vong cao. Chúng ta có thể cải thiện hiệu quả điều trị teo đường mật bằng cách giáo dục sức khỏe cộng đồng và nhân viên y tế giúp bệnh nhân đến bệnh viện sớm và rút ngắn thời gian chờ phẫu thuật.
Phẫu thuật Kasai (portoenterostomies) là phẫu thuật nối mật-ruột, là phương pháp điều trị bước đầu bệnh lý teo đường mật bẩm sinh, và sau đó là ghép gan khi có chỉ đinh. Phẫu thuật giúp kéo dài sự sống bệnh nhân trong thời gian chờ ghép gan. Nếu phẫu thuật Kasai dẫn lưu mật thành công, trẻ tiêu phân có màu và vàng da giảm dần. Quá trình này có thể kéo dài vài tuần đến vài tháng. Diễn tiến đến xơ gan ứ mật được phòng ngừa hay ít nhất cũng làm chậm lại, trẻ teo đường mật sống với gan tự nhiên đến tuổi trưởng thành cũng đã được báo cáo.
Sau phẫu thuật Kasai (ngay cả trường hợp thành công), các biến chứng như: suy dinh dưỡng, nhiễm trùng đường mật hướng lên (ascending cholangitis), tăng áp lực tĩnh mạch cữa, hội chứng gan phổi, bệnh năo gan cũng thường gặp. Phòng ngừa và kiểm soát các biến chứng trên bệnh nhân sau phẫu thuật là mục tiêu thứ hai trong quá trình điều trị bệnh nhân teo đường mật (sau mục tiêu thứ nhất là phẫu thuật dẫn lưu mật đúng thời điểm). Do đó việc theo dõi, có kế’ hoạch phòng ngừa và điều trị tốt các biến chứng đóng vai trò quan trọng, giúp kéo dài và tăng chất lượng cuộc sống trong khi chờ ghép gan (ghép gan là mục tiêu điều trị cuối cùng).
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Đánh giá hiệu quả và các biến chứng ở bệnh nhân teo đường mật bẩm sinh sau mổ Kasai” nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật Kasai tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 trong những năm qua và tổng kết quá trình theo dõi bệnh nhân trong thời gian vừa qua tại khoa Tiêu hoá, đồng thời đề ra các biện pháp chẩn đoán sớm, phòng ngừa, điều trị thích hợp các biến chứng và có chỉ đinh ghép gan kịp thời.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất