Kết quả phẫu thuật nội soi ổ bụng điều trị bệnh phình đại tràng bẩm sinh một thì

Kết quả phẫu thuật nội soi ổ bụng điều trị bệnh phình đại tràng bẩm sinh một thì

Năm 1995, Georgeson lần đầu tiên mô tả kỹ thuật nội soi ổ bụng kết hợp hạ đại tràng qua đường hậu môn một thì điều trị  bệnh PĐTBS. Phẫu thuật nội soi với những ưu điểm vượt trội như thẩm mỹ, ít gây chấn thương ổ phúc mạc, quan sát  rõ đoạn vô hạch, đoạn giãn và đoạn đại tràng lành, sinh thiết lạnh trong mổ để xác định chẩn đoán, thời  gian  phục hồi  sau mổ ngắn, giảm tỷ lệ biến chứng của phẫu thuật mở như tắc  ruột  do  dính,  nhiễm  trùng  vết  mổ.  PTNS ngày càng được áp dụng phổ biến để điều trị bệnh PĐTBS tại một số trung tâm phẫu thuật nhi lớn trên thế giới [1, 4, 6, 10].

Nhiều nghiên cứu đã mô tả một số kết quả chưa tốt qua theo dõi sau mổ như viêm ruột tái phát, táo bón, són phân, không kiểm soát đại tiện với tỷ lệ khác nhau bất kể tới áp dụng phương pháp phẫu thuật. Tuy nhiên, số nghiên cứu  theo  dõi  kết  quả  lâu dài  sau  PTNS chưa nhiều [3, 7, 8, 9] .

Tại Việt Nam, phẫu thuật nội soi điều trị bệnh PĐTBS bắt đầu được thực hiện tại Viện Nhi Trung ương từ năm 1997, nhưng đến năm 2001 phẫu thuật nội soi mới được áp dụng nhiều để điều trị bệnh PĐTBS. Từ đó đến nay mới có báo cáo nhận xét về kết quả bước đầu áp dụng kỹ thuật này trong điều trị bệnh PĐTBS [1], kết quả theo dõi xa sau mổ chưa được đề cập tới. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi ổ bụng điều trị bệnh phình đại tràng bẩm sinh một thì” với mục tiêu: Đánh giá kết quả theo dõi sau phẫu thuât nội soi ổ bụng điều trị bệnh PĐTBS.

I. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân bị bệnh PĐTBS được mổ bằng phương pháp  phẫu thuật nội soi một thì tại bệnh viện Nhi Trung ương trong thời gian từ tháng 01/2008 đến tháng 09/2009.

2. Tiêu chuẩn bệnh nhân:
Tuổi: Từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi, cả  giới nam và nữ.

Tiêu chuẩn chẩn đoán: bệnh nhân có  các triệu chứng lâm sàng (chậm ỉa phân su, táo bón kéo dài….) được chụp khung đại  tràng  có hình ảnh điển hình của bệnh PĐTBS là có đoạn hẹp, đoạn chuyển tiếp hình phễu và đoạn giãn với vị trí đoạn vô hạch ở trực tràng, đại tràng xích ma. Có kết quả sinh thiết trong mổ là không có tế bào hạch thần kinh ở đoạn hẹp, không dãn

Mục tiêu: đánh giá kết quả phẫu thuât nội soi ổ bụng điều trị bệnh phình đại tràng bẩm sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả tiến cứu, bệnh nhân dưới 36 tháng tuổi, bị bệnh phì đại tràng bẩm sinh có vị trí vô hạch từ trực tràng tới đại tràng xích ma được phẫu thuật nội soi một thì tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 1/2008 đến tháng 9/2009. Bệnh nhân được kiểm tra đánh giá khả năng đại tiện, tình trạng miệng nối, các biến chứng sau mổ. Kết quả: 64 bệnh nhân bị phì đại tràng bẩm sinh được phẫu thuật nội soi một thì gồm 55 nam và 9 nữ, 31/64 bệnh nhân (48,4%) bị đỏ da quanh hậu môn một thời gian ngắn sau mổ, khi ra viện tất cả các bệnh nhân đều tự đại tiện với số lần trung bình là 6,5 ± 2,2 lần/ ngày, một bệnh nhân bị rò miệng nối sau mổ 3 tuần. 54/64 bệnh nhân đã được kiểm tra sau mổ với tuổi TB là 17 ± 7,8 tháng (từ 5 – 39 tháng), thời gian theo dõi sau mổ trung bình là 11 ± 5,3 tháng, số lần đại tiện trung bình là 1,9 ± 1,0 lần/ ngày (từ 1 – 5 lần/ ngày), 45/54 bệnh nhân đại tiện phân thành khuôn,18/54 bệnh nhân thỉnh thoảng bị són phân, mức độ són phân và số lần đại tiện giảm dần qua thời gian theo dõi. Có 2/5 bệnh nhân bị viêm ruột sau mổ cần điều trị tại viện, không có BN nào bị táo bón tái phát, hẹp miệng nối, và tắc ruột do dính sau mổ. Kết luận: bệnh nhân bị phì đại tràng bẩm sinh sau phẫu thuật nội soi ổ bụng hạ đại tràng đều có khả năng tự đại tiện, tình trạng đại tiện dần dần trở về bình thường khi trẻ lớn dần lên. Tỷ lệ viêm ruột sau mổ, các biến chứng sau mổ thấp. Khả năng kiểm soát đại tiện cần tiếp tục được theo dõi.

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment