Kết quả phẫu thuật tạo hình van hai lá tại bệnh viện Việt Đức
Bệnh van hai lá gặp nhiều nhất trong các bệnh van tim mắc phải. Phẫu thuật tạo hình van là phương pháp điều trị bệnh rất tốt, song kỹ thuật khá phức tạp. Mục tiêu:(1) Mô tả đặc điểm tổn thương – kỹ thuật tạo hình van hai lá; (2) Đánh giá kết quả phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:95 ca tạo hình van hai lá được nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu vềcác đặc điểm bệnh van hai lá trước mổ, phẫu thuật tạo hình van và kết quả sau mổ. Kết quả và Bàn luận:có 96,8% bệ nh nhân suy tim =độ 2 trước mổ (NYHA), với 100% có hở van – trong đó 28,4% hở + hẹp van, tuổi trung bình 34,5 ± 13,2. Thương tổn van dạ ng thấp là chủ yếu (73,8%). Trung bình cần làm 4 / 15 kỹ thuật tạo hình cho mỗi ca, trong đó nhiề u nhất là đặt vòng van (67,4%), mở mép van (57,9%), cắt dây chằng (45,3%)… Kết quả sớm sau mổ rất tốt: không có tử vong, tình trạng van tốt hơn nhiều so vớ i trước mổ (p < 0,001), không có ca nào còn hở hoặc hẹp van nặng. Kết quả kiểm tra sau mổ 3 tháng, sau 3 năm, và sau 5 năm thể hiện tính chất ổn định của van hai lásau tạo hình với tỷ lệ sống sót cao (96,8% sau 3 tháng, 96,2% sau 3 năm, 93,4% sau 5 năm), và 78,5% xếp loại khá và tốt, chỉ có 3 ca phải mổ lại thay van. Kết luận:tạo hình van tuy có kỹ thuật khó – nhất là đối với thương tổ n van dạng thấp, nhưng là phương phá p tốt – an toàn trongđiều trị bệnh van hai lá.
Bệnh van hai lá là bệnh lý gặp nhiều nhất trong các bệnh van tim mắc phải. Nguyên nhân gây bệnh thường là thấp tim, nhiễm trùng (Osler), thoái hóa. Ở Việt Nam (tỷ lệ thấp tim > 4 ‰ trẻ em) [2], nguyên nhân do thấp chiếm gần 90% số phẫu thuật van tim [1; 2]. Hình thái thương tổn của van hai lá (VHL) tùy vào nguyên nhân gây bệnh, nhưng nhìn chung gồm 3 thể chính: hẹp van, hở – hẹp van, và hở van [2]. Chẩn đoán thểbệnh chủ yếu dựa vào siêu âm tim Doppler mầu.
Phẫu thuật (PT) tim hở là phương pháp chủ yếu điều trị bệnh VHL [2], bao gồm 2 loại là thay vanvà tạo hình van. PT thay van, tuy không quá phức tạp nhưng có một số hạn chế về biến chứng đông máu sau mổ (3 – 5 %/ năm đối với van cơ học), chi phí PT, biến chứng nhiễm trùng, chất lượng sống [1; 2]. PT tạo hình van – do bảo tồn được bộ máyVHL, nên có nhiều ưu điểm hơn. Tạo hình van là xu thế chung trên thế giới hiện nay đối với các VHL không bị hỏng quá nặng. Ở Việt Nam, PT tạo hình VHL được phát triển mạnh trong hơn 15 năm gần đây, và cho kết quả ban đầu rất khả quan[1; 2]. Tuy các trung tâm mổ tim đều tạo hình theo trường phái Carpentier [4], song kết quả có thể khác nhau tùy theo kinh nghiệm và sáng tạo trong khi mổ. Việc đánh giá đặc điểm kỹ thuật mổvà kết quả trung – dài hạn sau mổ sẽ góp phần nâng cao chất lượng của PT. Do vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm tổn thương và kỹ thuật tạo hình VHL.
2. Đánh giá kết quả PT tạo hình
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích