Kết quả phẫu thuật ung thư tuyến giáp thể nang
Kết quả phẫu thuật ung thư tuyến giáp thể nang
Nguyễn Xuân Hậu1,2
1 Trường Đại học Y Hà Nội
2 Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật trong ung thư tuyến giáp thể nang tại Bệnh viện K. Nghiên cứu kết hợp hồi cứu và tiến cứu trên 48 bệnh nhân chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến giáp thể nang được phẫu thuật tại Bệnh viện K từ 1/2016 đến 7/2020. Tỉ lệ bệnh nhân được phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp và cắt thùy + eo tuyến giáp là 75% và 25%, trong mỗi nhóm tỉ lệ vét hạch cổ kèm theo lần lượt là 66,7% và 0%. Phân loại giai đoạn bệnh chủ yếu là giai đoạn I (75%), giai đoạn IV chiếm 12,5%. Tổn thương thần kinh thanh quản quặt ngược và hạ canxi máu tạm thời là hai biến chứng hay gặp nhất sau phẫu thuật 72 giờ với tỉ lệ 14,6% và 18,8%, sau đó giảm dần. Có 1 bệnh nhân bị suy tuyến cận giáp vĩnh viễn sau 14 tháng theo dõi. Vét hạch cổ làm tăng nguy cơ hạ canxi sau mổ có ý nghĩa thống kê với p = 0,024.
Ung thư tuyến giáp thể nang là thể thường gặp thứ 2 trong nhóm ung thư tuyến giáp biệt hóa sau ung thư tuyến giáp thể nhú.1 So với thể nhú, ung thư tuyến giáp thể nang thường gặp ở nhóm tuổi lớn hơn, tỉ lệ di căn hạch thấp hơn thể nhú2,3 và di căn xa có thể là triệu chứng đầu tiên của bệnh.4,5 Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ (FNA) ít có vai trò trong chẩn đoán ung thư tuyến giáp thể nang vì rất khó để phân biệt giữa u tuyến thể nang và ung thư thể nang. Chẩn đoán xác định cần bằng chứng về xâm lấn mạch máu và/hoặc xâm lấn vỏ trên mô bệnh học.6 Với những thách thức về chẩn đoán trước mổ đó, ung thư tuyến giáp thể nang hầu như được chẩn đoán xác định sau phẫu thuật cắt thùy giáp (trừ trường hợp di căn xa đã được sinh thiết tổn thương trước đó). Chỉ định cắt toàn bộ tuyến giáp ngay lần đầu hoặc sau khi phẫu thuật cắt thùy và eo được thực hiện tùy theo tình trạng xâm lấn của khối u, tình trạng di căn và kết quả mô bệnh học sau mổ. Chỉ định vét hạch cổ cũng khác nhau theo từng trường hợp cụ thể, quan điểm vét hạch cổ dự phòng vẫn còn nhiều tranh luận. Tùy theo mức độ phẫu thuật cắt tuyến giáp và vét hạch mà tỉ lệ các biến chứng xảy ra sau mổ cũng khác nhau. Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về kết quả phẫu thuật tuyến giáp nói chung, tuy nhiên các báo cáo chi tiết hơn về kết quả điều trị, tỷ lệ các biến chứng sau mổ ở nhóm bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể nang vẫn còn chưa nhiều. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu: đánh giá kết quả phẫu thuật của ung thư tuyến giáp thể nang tại Bệnh viện K.