KẾT QUẢ SỐNG THÊM TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ THỰC QUẢN GIAI ĐOẠN III, IV BẰNG PHÁC ĐỒ HÓA – XẠ ĐỒNG THỜI
Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả sống thêm trong điều trị ung thư thực quản giai đoạn III, IV bằng phác đồ hóa xạ đồng thời tại bệnh viện K từ năm 2009 – 2011. Qua nghiên cứu 62 bệnh nhân ung thư thực quản điều trị tại khoa xạ 4, bệnh viện K trong giai đoạn từ 9/2009 – 9/2011, chúng tôi thấy: Tỷ lệ mắc bệnh cao ở lứa tuổi 40 – 59 (79%), nam nhiều hơn nữ với tỷ lệ 30/1. Về vi thể ung thư biểu mô vẩy thường gặp nhất (98,4%). ThờOgin số thêm toàn bộ 6 tháng là 96,7%; 12 tháng là 60,2%, 24 tháng là 10,2%. Sống thêm theo mức độ xâm lấn u lan ra ngoài thanh mạc ở thời điểm 6 tháng là 93,5%, 12 tháng là 57,6%, 24 tháng là 10,5%. Bệnh nhân sống thêm ở thời điểm 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng giai đoạn T3 tương ứng là: 95,8%; 76,6%; 14,8% và gũmđoạn T4 tương ứng là: 93,2%; 40,7%; 13,6%. ThờOgũPn sống thêm tạũthờo đểm 6 tháng, 12 tháng, 24 vớ^gMiđữạn III tương ứng là: 96,3%; 68,9%; 10,5% vớ^gMiđữạn IV a,b là 75%; 37,5%.
Ung thư thực quản đứng thứ 3 trong các ung thư đường tiêu hóa sau ung thư đại tràng và dạ dày. Tỷ lệ mắc ung thư thực quản cao được ghi nhận ở miền Bắc Trung Quốc, các nước vùng đông bắc biển Caspi, Nga, Pháp với tỷ lệ là 10 – 36/100.000 dân, đặc biệt tỷ lệ này cao nhất ở Iran là 184/100000 dân. Ở Mỹ ung thư thực quản đứng thứ 15 trong những bệnh ung thư phổ biến.
Còn ở Việt Nam, theo ghi nhận ung thư của Nguyễn Bá Đức và cộng sự tỷ lệ mắc ung thư thực quản tại Hà Nội ở nam là 8,7/100000 dân và nữ là 1,7/100.000; bệnh xếp thứ 5 trong 10 bệnh ung thư phổ biến. nam giới mắc nhiều hơn nữ giới và tuổi từ 50 – 60 [1]. Theo nghiên cứu của Phạm Đức Huấn tỷ lệ nam/ nữ là 15,8 [2]. Mặc dù có những tiến bộ lớn trong quá trình phát hiện sớm, chẩn đoán bệnh cũng như tiến bộ có trong điều trị nhưng tiên lượng ung thư thực quản cũng rất xấu. Theo nghiên cứu của châu Âu, tỷ lệ sống 5 năm là 5% trong những năm 1978 là 80,9%, năm 1987 là 89,10% năm 1991 – 2001. Theo nghiên cứu của Hàn Thanh Bình [3] tỷ lệ sống thêm toàn bộ điều trị tia xạ đơn thuần sau 12 tháng là 20,93% và 24 tháng là 9,33%. Điều trị ung thư thực quản chủ yếu phụ thuộc vào giai đoạn bệnh và thể trạng bệnh nhân. Đối với giai đoạn sớm điều trị bằng phương pháp phẫu thuật là chủ yếu. Ở giai đoạn muộn, bệnh tiến triển và di căn xa, cần phối hợp hóa xạ đồng thời là xu thế chung trong điều trị ung thư thực quản trên thế giới.
Ở Việt Nam, chưa có một nghiên cứu nào đánh giá thời gian sống thêm trong điều trị ung thư thực quản giai đoạn muộn bằng phương pháp điều trị hóa xạ đồng thời. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu: Đánh giá kết quả sống thêm trong điều trị ung thư thực quản giai đoạn III, IV bằng phác đồ hóa xạ đồng thời tại bệnh viện K từ năm 2009 đến năm 2011.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất