KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHẪU THUẬT BẮC CẦU TẠI CHỖ TRONG TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN CHI DƯỚI BẰNG TĨNH MẠCH HIỂN CÓ NỘI SOI PHÁ VAN TẠI BV. NHÂN DÂN 115

KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHẪU THUẬT BẮC CẦU TẠI CHỖ TRONG TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN CHI DƯỚI BẰNG TĨNH MẠCH HIỂN CÓ NỘI SOI PHÁ VAN TẠI BV. NHÂN DÂN 115

 KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHẪU THUẬT BẮC CẦU TẠI CHỖ TRONG TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN CHI DƯỚI BẰNG TĨNH MẠCH HIỂN CÓ NỘI SOI PHÁ VAN TẠI BV. NHÂN DÂN 115

Cao Văn Thịnh 
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thiếu máu mạn tính chi dưới thường gặp và do nhiều nguyên nhân. Điều trị nhóm bệnh này có nhiều phương pháp nhưng kết quả còn khiêm tốn. Phẫu thuật bắc cầu động mạch tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển có thực hiện nội soi phá van đã được thực hiện mặc dù còn nhiều thách thức.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ trong điều trị thiếu máu mạn tính chi bằng kỹ thuật tĩnh mạch hiển có nội soi phá van tại Bv Nhân Dân 115 từ 1/2006 đến 12/2010.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang, có phân tích các trường hợp lâm sàng.
Kết quả: Từ 01/2007 đến 12/2010 tại Bv Nhân Dân 115 đã phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ cho 50 trường hợp thiếu máu mạn tính chi dưới, gồm 10 nữ và 40 nam. Nguyên nhân thiếu máu mạn chi dưới do biến chứng của bệnh đái tháo đường (06 Bn), xơ vữa động mạch (37 Bn), Suy thận mạn (03 Bn) và bệnh Buerger (4 Bn). Các trường hợp sau phẫu thuật có kết quả tốt chiếm 86%, trung bình 4% và xấu 10%.
Kết luận: Ghép tại chỗ tĩnh mạch hiển có thực hiện nội soi phá van trong phẫu thuật bắc cầu nối điều trị thiếu máu mạn tính chi dưới là kỹ thuật mới, tiến bộ, áp dụng khả thi tại Việt Nam. Những kết quả sớm sau triển khai kỹ thuật này tại BV Nhân dân 115 là bước đầu được ghi nhận. Bên cạnh những ưu điểm của kỹ thuật còn những thách thức được đặt ra như: Đánh gía cẩn thận Bn trước mổ và lựa chọn chỉ định phẫu thuật; Tận dụng tối đa các phương tiện như siêu âm Doppler, DSA, CTscan trong chẩn đoán, theo dõi bệnh và nội soi lòng mạch phá van khi thực hiện kỹ thuật; Tích luỹ kinh nghiệm và huấn luyện kỹ càng cho nhóm các Bs phẫu thuật viên thực hiện kỹ thuật mới tại cơ sở điều trị; Tăng cường số lượng các bệnh nhân được thực hiện kỹ thuật mới trong phẫu thuật bắc cầu nối nhằm tăng tính thuyết phục và tính khoa học của nghiên cứu.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tình trạng thiếu máu mạn tính chi dưới có thể gặp cả ở các bệnh nhân (Bn) có hoặc không có đái tháo đường. Vị trí tắc mạch mạn thường thấy như động mạch đùi, khoeo, chầy hay mu chân. Khi tổn thương càng ở đầu xa, việc điều trị và tiên lượng càng khó khăn hơn. Không ít các trường hợp bệnh đã phải đoạn chi.
Với mục đích giảm thiểu số Bn phải đoạn chi, nhiều nhà khoa học đã nỗ lực áp dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật thích hợp nhằm tăng tưới máu phần ngọn chi. Nếu tính từ thập niên 40-50 việc điều trị tắc hệ thống từ động mạch chầy chỉ bằng đoạn chi, thậm chí phẫu thuật đoạn chi được coi là một đặc thù dành cho biến chứng của bệnh đái tháo đường. Trong thập niên 60-70 phẫu thuật bắc cầu nối đùi – khoeo đã được nghiên cứu và áp dụng thành công. Vào những năm 80, nhóm các Bác sĩ ở New York đã sử dụng kỹ thuật ghép tại chỗ và có khả năng bắc cầu nối đến động mạch chầy. Năm 1985 Campbell(14) cùng các đồng nghiệp ở Boston (Mỹ) đã ghi nhận một trường hợp Bn có tổn thương động mạch chầy nhưng còn mạch mu chân và người bệnh đã được bắc cầu nối từ động mạch đùi xuống động mạch mu chân thành công. Kỹ thuật này đã mở ra nhiều khả năng trong điều trị chứng tắc mạch mạn ở Bn đái tháo đường.
Phẫu thuật bắc cầu bằng tĩnh mạch hiển có thể sử dụng đoạn tĩnh mạch tự thân đảo chiều hay thuận chiều. Một số trường hợp có thể dùng tĩnh mạch cánh tay khi tĩnh mạch hiển không sử dụng được. Với kỹ thuật ghép tại chỗ, tĩnh mạch hiển được giữ thuận chiều và phải thực hiện thủ thuật phá van tĩnh mạch đảm bảo sự lưu thông tốt của dòng máu chảy. Hiện nay kỹ thuật này đã được nhiều tác giả nước ngoài sử dụng thường qui và cho hiệu quả khả quan.
Ở Việt Nam, bệnh lý thiếu máu chi dưới khá thường gặp chủ yếu do xơ vữa động mạch hoặc bệnh Buerger, biến chứng của bệnh đái tháo đường. Phẫu thuật bắc cầu nối phục hồi lưu thông tưới máu ngọn chi cũng đã được nghiên cứu áp dụng. Giai đoạn 1990-1994 tại Bệnh viện (Bv) Chợ Rẫy TP.HCM theo Phạm Thọ Tuấn Anh đã thực hiện được 21 trường hợp, đa số là tắc trung tâm (tắc gần). Trong 7 trường hợp dùng tĩnh mạch tự thân, chủ yếu dùng đảo đầu khi ghép nối, chỉ có 01 trường hợp được dùng thuận chiều. Những khó khăn khi ghép tĩnh mạch hiển tại chỗ thuận chiều không chỉ đơn thuần về kỹ thuật mà có liên quan đến vấn đề phá van tĩnh mạch hiển. Với những tiến bộ về y học trong những năm gần đây cho phép áp dụng nội soi lòng mạch giúp hướng dân và kiểm tra khi tiến hành phá van tĩnh mạch sẽ đảm bảo cho thành công chung của cuộc phẫu thuật.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment