Khả năng chi trả chi phí y tế của người dân huyện BA Vì

Khả năng chi trả chi phí y tế của người dân huyện BA Vì

Một  số nghiên cứu  tại các  huyện nông  thôn  Việt Nam cho thấy  ng-ời  nghèo có xu  h-ớng phải  bán đồ đạc vỡ vay  tiền để chi trả cho chi phí y tế, trong  khi  đó thì ng-ời  giầu th-ờng có sẵn tiền để chi trả,  chính điều này đã đẩy họ đứng trước nguy cơ rơi vỡo vòng xoắn đói nghèo. Mục tiêu: Xác định chi phí y tế trung bình của  các  hộ gia  đình trong  1 năm. Xác định các  nguồn vay  vỡ số tiền vay  trung bình để chi cho y tế của  các  hộ gia đình. Đối t-ợng vỡ  ph-ơng pháp: 621  hộ  đ-ợc lựa  chọn  ngẫu  nhiên từ  mẫu  chung của Fila  Ba  Vì tỉnh Hỡ Tây. Nghiên cứu  mô tả theo dõi dọc, chủ  hộ đ-ợc phỏng vấn mỗi  tháng một  lần kể từ tháng 7/2001 đến tháng 6/2002. Kết quả vỡ  kết luận: Các  hộ gia đình đã sử dụng 519.000đ/năm (6.4% của thu  nhập  hộ gia đình) cho chi phí y tế. Thu nhập  hỡng  năm ở nhóm nghèo lỡ 6.576.000đ  vỡ 8.4% đ-ợc dùng chi trả cho chi phí y tế. Có 16,9% hộ gia đình phải  vay tiền để chi trả cho y tế, tỷ lệ nỡy ở các hộ nghèo lỡ 23,7%.  Các  gia đình th-ờng vay  m-ợn tiền từ các  nguồn khác nhau để trả chi phí y tế, 85% vay  của họ hỡng, 50% vay  từ  láng giềng, 26% từ  ngân hỡng, 15% từ  bạn bè,  9% từ  tổ chức  cộng  đồng vỡ 18% từ  các nguồn t- nhân có lãi xuất.
Tại  nhiều n-ớc đang phát triển, ng-ời  dân phải
đóng góp  cho  chi phí  y tế  bằng  chính tiền túi của mình. Nhiều nghiên cứu cho thấy tại những n-ớc nỡy khả năng chi trả cho việc khám chữa bệnh của ng-ời dân đã trở thỡnh  vấn đề cơ bản  về mặt chính sách, vỡ lỡ vấn đề đặc biệt  cấp bách tại những  nơi mỡ các hộ gia đình phải đối mặt với  gánh nặng về chi phí từ các dịch vụ cơ bản  nh- y tế vỡ giáo  dục [6]. Các hộ gia đình có thể dỡnh   chi tiêu  cho khám chữa  bệnh, nh-ng  để  lỡm  nh-  vậy, họ  buộc  phải  cắt giảm  chi tiêu  cho các nhu  cầu thiết yếu khác nh- thực phẩm vỡ giáo  dục,  dẫn đến những  tác động nghiêm trọng cho gia đình hay các cá nhân trong gia đình [6].
Một  số n-ớc nghèo đã  đ-a ra  bằng  chứng   lỡ những  nhóm  có thu nhập thấp hơn đã phải sử dụng một tỷ lệ thu nhập của  mình cho y tế cao  hơn nhóm giầu. (Fabricant et al. 1999).  Nếu không có sẵn tiền, ng-ời  ốm  th-ờng   phải  vay  m-ợn bạn bè vỡ ng-ời quen  để chữa  bệnh. Hậu quả  lỡ tổn thất vỡ nợ nần triền miên, hoặc sẽ bị ốm  đau do thiếu dinh d-ỡng. Ngỡy nay  những  chi phí y tế cao  trở thỡnh  nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo. Vì  thế ng-ời  ta gọi đây lỡ “cái bẫy đói nghèo về y tế ” [4].

Một số nghiên cứu tại  các huyện nông  thôn Việt Nam cho thấy ng-ời nghèo có xu h-ớng phải bán đồ đạc vỡ vay tiền để chi trả cho chi phí y tế, trong khi đó thì ng-ời giầu th-ờng  có sẵn tiền  để chi trả [5, 7]. Chính điều nỡy đã đẩy họ đứng tr-ớc nguy cơ rơi vỡo vòng  xoắn đói nghèo. Nghiên cứu  của  chúng   tôi đ-ợc điều tra trên cơ sở cộng  đồng nhằm  mô tả các hộ  gia đình ở các nhóm  có  thu nhập khác nhau  tại một vùng nông  thôn Việt Nam đã chi trả chi phí cho y tế như thế nào, với  mục  tiêu:
1. Xác định chi phí y tế trung  bình của các hộ gia đình trong 1 năm.
2.  Xác định  các  nguồn vay   vỡ  số tiền vay trung  bình để chi cho  y tế của  các hộ  gia đình.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment