KHÁNG SINH DỰ PHÒNG MỘT MŨI TIÊM SO VỚI KHÁNG SINH BAO PHỦ PHẪU THUẬT TRONG TÁN SỎI NIỆU QUẢN NỘI SOI NGƯỢC DÒNG

KHÁNG SINH DỰ PHÒNG MỘT MŨI TIÊM SO VỚI KHÁNG SINH BAO PHỦ PHẪU THUẬT TRONG TÁN SỎI NIỆU QUẢN NỘI SOI NGƯỢC DÒNG

KHÁNG SINH DỰ PHÒNG MỘT MŨI TIÊM SO VỚI KHÁNG SINH BAO PHỦ PHẪU THUẬT TRONG TÁN SỎI NIỆU QUẢN NỘI SOI NGƯỢC DÒNG

Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Vũ Lê Chuyên*, Chung Tuấn Khiêm*
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề và mục tiêu: Xác định tỉ lệ thành công của Amoxicillin + acid clavulanic trong vai trò kháng sinh dự phòng cho phẫu thuật tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng tại khoa Tiết niệu bệnh viện Bình Dân. So sánh tỉ lệ thành công khi dùng Amoxicillin + acid clavulanic kiểu một mũi tiêm so với kiểu bao phủ phẫu thuật, từ đó rút ra khuyến cáo nên dùng kiểu nào trong điều kiện của chúng tôi.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các trường hợp phẫu thuật tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng dùng máy tán sỏi xung hơi tại khoa Niệu B và Niệu C bệnh viện Bình Dân thời gian từ 01/2011 đến 9/2012 không có bằng chứng nhiễm khuẩn niệu trước mổ trên lâm sàng và xét nghiệm được chia ngẫu nhiên bệnh nhân thành 2 nhóm: Nhóm 1: sử dụng Amoxicillin + acid clavulanic (Curam® 1,2g), chích tĩnh mạch một liều duy nhất trước mổ 30 phút; Nhóm 2: dùng kháng sinh trên từ lúc ngay sau mổ đến khi bệnh nhân xuất viện hoặc đến khi rút thông niệu đạo. Sau mổ ghi nhận: tình trạng sốt, làm tổng phân tích nước tiểu và cấy nước tiểu sau mổ 24 giờ tìm bằng chứng của nhiễm khuẩn niệu. Nếu có nhiễm khuẩn sau mổ sẽ tiếp tục dùng Amoxicillin + acid clavulanic như kháng sinh điều trị cho nhiễm khuẩn đường tiểu trên có tham khảo kết quả kháng sinh đồ. Xác định tỉ lệ thành công của kháng sinh trên trong vai trò kháng sinh dự phòng. So sánh kết quả của 2 nhóm trên về tỉ lệ nhiễm khuẩn niệu sau mổ. Dữ liệu hai nhóm được xử lý bằng phần mềm SPSS16.0.

Kết quả: Trong thời gian từ 01/2011 đến 9/2012 có tổng cộng 96 bệnh nhân được chia ra 2 nhóm: 44 bệnh nhân được dùng kháng sinh bao phủ phẫu thuật, 52 dùng kháng sinh dự phòng một mũi tiêm. Giữa hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỉ lệ nam/nữ, tuổi trung bình, creatinin huyết thanh, tỉ lệ bệnh nhân có suy thận trước mổ, không có sự khác biệt về kích thước sỏi, bên phẫu thuật, vị trí sạn. Giữa hai nhóm có sự khác biệt về mức độ ứ nước của thận, chức năng thận với nhóm dùng kháng sinh dự phòng một mũi tiêm có mức độ ứ nước thận nặng hơn và chức năng thận kém hơn. Nhóm dùng kháng sinh dự phòng một mũi tiêm có tỉ lệ không tán sỏi cao hơn, có thời gian mổ, thời gian lưu ống thông tiểu, thời gian nằm viện sau mổ dài hơn nhóm dùng kháng sinh bao phủ. Chung cả hai nhóm, tỉ lệ bệnh nhân có khuẩn niệu không triệu chứng sau mổ là 63,54% (61/96); tỉ lệ nhiễm khuẩn niệu có triệu chứng sau mổ là 7,28% (7/96); tỉ lệ thành công của Amoxicillin + acid clavulanic làm kháng sinh dự phòng là 92,72 % (89/96). Nhóm dùng kháng sinh bao phủ có tỉ lệ khuẩn niệu không triệu chứng cao hơn nhóm dùng kháng sinh dự phòng một mũi tiêm (36/44 so với 25/52, p=0,001) nhưng không có trường hợp nào nhiễm khuẩn có triệu chứng sau mổ còn nhóm kháng sinh dự phòng một mũi tiêm có tỉ lệ nhiễm khuẩn có triệu chứng là 13,46% (7/52). Trên cả hai nhóm, trong 10 trường hợp cấy nước tiểu dương tính sau mổ có đến 8 trường hợp do Pseudomonas aeruginosa.

Kết luận: Trong điều kiện của chúng tôi, có thể dùng kháng sinh Amoxicillin + acid clavulanic làm kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật tán sỏi niệu quản qua nội soi ngược dòng với tỉ lệ thành công là 92,72%. Trong tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện còn quan trọng, dự phòng nhiễm khuẩn niệu sau mổ dưới dạng kháng sinh bao phủ phẫu thuật là an toàn hơn so với kháng sinh dự phòng một mũi tiêm.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment