KhảO sát các chỉ số của đầu dưới xương quay và khớp quay trụ dưới trên X quang

KhảO sát các chỉ số của đầu dưới xương quay và khớp quay trụ dưới trên X quang

KhảO sát các chỉ số của đầu dưới xương quay và khớp quay trụ dưới trên X quang
Lê ngọc quyên, Vũ tam trực
Huỳnh chí hùng
TÓM TẮT
Chúng  tôi  chụp Xquang  kỹ  thuật  số  cổ  tay  bình diện  thẳng  và  nghiêng  của  202  người  trưởng  thành bình thường. Dùng phần mềm chuyên dụng để đo các chỉ số của đầu dưới xương quay và khớp quay trụ dưới. Các số liệu được xử lý và phân tích cho các kết quả : độ nghiêng quay (RA) là 25,30±1,11; độ nghiêng lưng (DA)  là  90±3,9;  chiều  cao  mặt  khớp  quay  (RL)  là 10,8±2,1mm; độ chênh quay trụ (UV) là -0,8±1,45mm; độ  rộng  khớp  quay  trụ  dưới  (WDRU)  là  1,93±0,7mm. 
Trong đó chúng tôi thấy chỉ số RL ở nữ nhỏ hơn nam (p<0,001),  góc  DA  giảm  theo  tuổi  (p=0,04),  UV  tăng (giảm độ âm) theo tuổi (p=0,02). Chúng tôi mong rằng kết  quả  nghiên  cứu  này  có  thể  được  dùng  làm  cơ  sở dữ liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu khác; cơ sở để đánh giá trong nắn chỉnh và theo dõi di lệch thứ phát trong gãy đầu dưới xương quay; đánh giá tổn thương dây chằng tam giác khớp quay trụ dưới và theo dõi quá trình thoái hóa khớp
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gãy  đầu  dưới  xương  quay(ĐDXQ) và  tổn  thương khớp  quay  trụ  dưới  (KQTD)  là  loại  chấn  thương  chi trên  thường  gặp  nhất  trong  chấn  thương chỉnh  hình. Trước đây loại tổn thương này thường được cho là dễ điều  trị  và  chủ  yếu  là  bó  bột.  Tuy  nhiên  ngày  nay càng nhiều phương pháp điều trị mới ra đờinhằm đạt được  sự  nắn  xương  hoàn  hảo  hơn,  trả  lại  đúng  giải phẫu để khắc phục vấn đề đau và hạn chế vận động. X Quang là cận lâm sàng thường dược sử dụng nhất để đánh giá sự phục hồi giải phẫu và theo dõi sự di lệch  thứ  phát.  Có  nhiều  yếu  tố  ảnh  hưởng  làm sai lệch các chỉ số này như: vị trí cẳng tay, cổ tay và bàn tay khi chụp XQ ; hướng và khoảng cách tia XQ đến cổ  tay.  Các  chỉ  số  ĐDXQ  và KQTD  đo được  trên XQuang được mô tả bởi Taleisnik, Destouet , Palmer. 
Năm 1992 Schuind và cộng sự đã có nghiên cứu về các chỉ số của cổ tay trên XQuang bình diện thẳng và các mối quan hệ của các chỉ số này. Nghiên cứu của chúng tôi với mong mong muốn có được các chỉ số bình thường của ĐDXQ và KQTD của người Việt Nam cùng các mối quan hệ với tuổi, giới

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment