KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN MỔ LẨY THAI VÌ THAI TRÌNH NGƯNG TIẾN TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN MỔ LẨY THAI VÌ THAI TRÌNH NGƯNG TIẾN TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG TP. HỒ CHÍ MINH (12/2009-3/2010)
TÓM TẮT
Thông tin cơ sở. Mổ lấy thai ngày càng gia tăng trên toàn thế’giới, trong đó có Việt Nam. Mặc dù không có định nghĩathống nhất nhưng thai trìnhngưngtiến là mộttrongnhữngchỉđịnh mổ lấy thaithường gặpnhất
trong thực tế’và có thể làm gia tăng tỷ lệ MLT không cần thiết.
Mục tiêu. Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tô’ liên quan đến chỉ định mổ lấy thai vì thai trình ngưng tiến tại bệnh viện Hùng Vương, TP. Hồ Chí Minh.
Phương pháp. Nghiên cứu bệnh-chứng với 115 thai phụ được mổ lấy thai vì thai trình ngưng tiến (nhóm bệnh) và 115 thai phụ MLT vì chỉ định khác (không bao gồm mổ lấy thai vì bất xứng đầu chậu) tại bệnh viện Hùng Vương từ 01/12/2009 đến 30/03/2010. Phân tích hồi quy đa biến được dùng đểkhống chếnhiễu.
Kết quả. Có 4 yếu tô’ liên quan độc lập đến chỉ định mổ lấy thai vì thai trình ngưng tiến bao gồm có sử dụng oxytocin (OR=7,1; KTC 95%=2,3-22,1); sinh con lần đầu (OR=6,1; KTC 95%=1,4-26,3); ước lượng cân thai >3500 g (OR=2,9; KTC 95%=1,1-7,9) và điểm Bishop <7 (OR=0,2; KTC 95%=0,1-0,8).
Kết luận. Những yếu tô’ làm tăng nguy cơ mổ lấy thai vì thai trình ngưng tiến là cơ sở đểcập nhật phác đồ điều trị và xây dựng những can thiệp góp phần làm giảm tỷ lệ mổ lấy thai không cần thiết tại các cơ sở y tế.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mổ lấy thai (MLT) là loại phẫu thuật được thực hiện phổ biến nhất trên toàn thế’ giới với tỷ lệ gia tăng hàng năm, đặc biệt ở các nước đang phát triển3’7). Nhiều nghiên cứu cho thấy MLT làm tăng bệnh suất và tử suất cho mẹ(10), đặc biệt khi MLT không có chỉ đinh y khoa(9). Riêng tại TP.HCM, năm 2000 tỷ lệ MLT là 20,4% đã tăng lên 33,4% vào năm 2005(14).
Hiện nay, MLT vì thai trình ngưng tiến (TTNT) là một chỉ đinh rất thường gặp của MLT trên toàn thế’ giới. Tại Hoa Kỳ, MLT vì TTNT đứng thứ hai chỉ sau MLT vì vết mổ cũ(3). Tại nước ta, theo các thống kê gần đây tại các bệnh viện sản lớn thì tỷ lệ này cũng rất cao. Tại Việt Nam (VN) tỷ lệ này dao động từ 30,5%-61,3% tạibệnh viện phụ sản Trung Ương, và 47,7%- 54,4% tại bệnh viện Hùng Vương (BVHV), TP. Hồ Chí Minh(14).
Tuy vậy, TTNT là một chỉ đinh MLT không rõ ràng. Theo Notzon (1994), có đến 15 mã ICD khác nhau đều mô tả tình trạng MLT do TTNT(3) và có nhiều thuật ngữ để chỉ tình trạng này, vd. “sinh khó”, “chuyên dạ bất thường”, “thai trình ngưng tiế’n”(11).
Do tính chất “không rõ ràng”, chỉ đinh MLT vì TTNT có thê là nguyên nhân làm gia tăng MLT không cần thiết, và tại nhiều nước phát triển, đã có những nỗ lực nhằm làm giảm tỷ lệ MLT vì TTNT(4,8).
Nhằm góp phần hạn chế những trường hợp MLT không cần thiết,chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác đinh những yếu tố’ có liên quan đến chỉ đinh MLT vì TTNT tại một bệnh viện chuyên ngành sản phụ khoa của TP. Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu này sẽ là cơ sở để cập nhật lại phác đồ điều tri và xây dựng những chương trình can thiệp nhằm hạn chế MLT không cần thiết tại Việt Nam.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất