KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH Ở BỆNH NHÂN CÓ HBeAg (-) VÀ HbeAg (+)
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH Ở BỆNH NHÂN CÓ HBeAg (-) VÀ HbeAg (+) ĐIỀU TRỊ TẠI BVĐK THỐNG NHẤT ĐỒNG NAI NĂM 2013
Nguyễn Ngọc Thanh Quyên15
, Lê Thế Dương, Lê Thị Mai Hương, Lê Thị Bạch Tuyết, Lưu Thị Thanh, Trần Thị Lành
Cơ sở tiến hành nghiên cứu: Viêm gan B mạn HBeAg (-) được xem là thể bệnh thường gặp ởkhu vực Đia Trung Hải, vùng lưu hành của genotýp D. Thể bệnh này được báo cáo với tỷ lệ ngày càng nhiều trên thế giới, vùng lưu hành của genotýp B, C, và D. Tại khu vực châu Á, vùng lưu hành của genotýp B & C, tỷ lệ viêm gan HBeAg (-) có khi được báo cáo đến >50% trong số viêm gan B mạn. Tại những khu vực lưu hành cao, viêm gan HBeAg (-) nên được xem là giai đoạn tiến triển muộn của bệnh hơn là nhiễm trùng ngay từ đầu của chủng HBV có đột biến precore. Nghiên cứu này tiến hành nhằmmô tả mức độ tổn thương gan trên người viêm gan B mạn HBeAg (-) trên bệnh nhân điều trị tại bệnh viện.
Phương pháp mô tả cắt ngang thực hiện trên bệnh nhân viêm gan B mạn điều trị ngoại và nội trú. Các biến số HBVDNA, transaminase, tỷ lệ prothrombine, albumin máu, được mô tả nhằm thểhiện mức độ tổn thương gan và có so sánh với nhóm HBeAg (+).
Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân viêm gan B mạn HBeAg (-) nam gấp 2 lần nữ, 59,8 % >40 tuổi, 69% có HBVDNA > 5log copy/ml. 21,3 % có giảm albumin máu <30g/l, 48,6 % có tỷ lệ prothrombine ≤50% hay INR ≥2.3, và 17,6% có xơ gan Child B hay C. Transaminase tăng không khác nhau so với nhóm HBeAg (+) nhưng bilirubine tăng nhiều hơn
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất